Tuesday, July 6, 2010

Đường ra khỏi Basra

road out of basra 
Kính tặng Sgt. Nguyễn Khắc Bình & gia đình

Khi tôi đặt bàn chân đầu tiên chạm xuống đất Mỹ, tôi đã để ý rất kỹ, cái cảm giác đầu tiên bao giờ cũng vậy, nó gây một ấn tượng sâu sắc lâu dài trong ký ức. Vậy mà trong giây phút đó tôi chỉ ngẩn ngơ một chút, một chút thôi rồi bị đẩy theo dòng người… Cái cảm giác bàng hoàng, sâu sắc nhất phải kể là lúc máy bay cất cánh rời Việt Nam. Khi chiếc máy bay United Airline nhấc mình rời phi đạo, tôi ý thức được mình không còn đặt chân trên mảnh đất quê hương nữa. Tôi lơ lửng, bay cao và bay cao mãi. Đột nhiên tôi có cảm giác xác thân không còn tồn tại, tôi giống như một thứ linh hồn đang lơ lửng rời bỏ trần gian.
Mẹ tôi nói, đặt chân lên đất Mỹ tức là đặt chân lên tới thiên đàng. Cha nói, hãy bám trụ, đừng trở về cái địa ngục này. Tôi hiểu, cha mẹ đang cắt ruột đấy, và tôi cũng đang quặn lòng phải rời bỏ gia đình để đi du học.
“Phải bám trụ.” Ba cái chữ này ám ảnh và mọc rễ trong tâm trí tôi. Nhưng mà làm thế nào để bám trụ? Để được ở lại nước Mỹ, vào quốc tịch, và sau này kéo hết gia đình sang, đó là mục tiêu tối thượng, và cũng là niềm mơ ước của cả gia đình, điều đó thật không dễ. Con đường tắt là kết hôn với người có quốc tịch. Ở ký túc xá, trong lớp, đi shopping, đi làm thêm, hay bất cứ lảo rảo nơi đâu tôi cũng dán mắt vào những đứa con gái. Tôi đoán và xác định mục tiêu, con nhỏ này còn Việt Nam quá, chắc chỉ có thẻ xanh, con nhỏ kia có vẻ Mỹ hóa chắc chắn là có quốc tịch rồi hay nó đẻ ở đây. Tôi bất kể tuổi tác, nhan sắc, trong đầu vẽ ra một cuộc tình chớp nhoáng, mà cái nào cũng kết thúc bằng một buổi lễ tuyên thệ tại sở Di Trú. Nhưng mà thực tế, chưa có lần nào tôi mở miệng làm quen, tôi vẫn đứng đó với một tâm trạng xuôi xị, hèn hèn. Tệ hơn nữa, trước mặt họ, tôi có cảm giác mình là người làm bằng thủy tinh trong suốt, họ nhìn thấy tâm địa bất chánh, những ý đồ đen tối rõ mồn một như một vết mực đen vấy bẩn khắp người. Những thằng du học sinh khác bảo, hãy coi chừng, léng phéng với họ có ngày ăn dao, ăn đạn đấy. Chúng nó bày, muốn ở lại, chỉ có nước kết hôn giả. Kết hôn giả ngốn rất nhiều tiền. Cha mẹ tôi đã phải cầm cố nhà cửa, tài sản duy nhất để lo chuyện du học rồi, đánh chết tôi cũng không dám nghĩ tới tạo một gánh nặng nữa cho gia đình. Một thằng bạn khác bảo, đăng lính đi, phục vụ trong quân ngũ một thời gian vừa được quy chế vào quốc tịch, vừa được học bổng học đại học, nhất cử lưỡng tiện. Chiến tranh Iraq mới bắt đầu, nhu cầu cần lính đang cao. Và tôi, quyết định ngay, mở một con đường máu, vào quân đội để thoát hiểm.
Quyết định vào lính làm mọi người kinh ngạc. Bạn tôi nói, “Đi lính bây giờ là nhảy vô địa ngục.” Tôi cười cười, vò vò cái đầu gần như trọc lóc. Không, tôi chỉ muốn làm một cú “vượt vũ môn” thôi. Tương truyền ngày xưa có một loài cá chép, cứ ba năm thì được vượt vũ môn để hóa thành rồng. Từ dân Việt để trở thành công dân Mỹ cũng giống như đi đầu thai kiếp khác, tôi cần phải “vượt vũ môn” như một con cá chép thật.
Tôi không kể cho ai nghe về thời huấn nhục ở quân trường. Làm thế nào để từ một người dân trở thành một người lính? Nó đã tóm gọn trong hai chữ huấn nhục. Người ta huấn luyện người lính đứng vững trong mọi tình thế, kể cả khi địch bắt, bị tra khảo và chịu nhục hình.
Tôi gửi cho gia đình một tấm hình lễ mãn khóa. Tôi trong bộ quân phục bộ binh, vác súng, qua nhiều tư thế. Mẹ tôi khóc. Mẹ đã vất vả nuôi ba tôi trong tù nhiều năm. Còn cha, tuy là lính trơn nhưng lúc xe tăng T.54 tiến vào Dinh Độc Lập, cha cùng đồng đội còn đang lập chốt làm tuyến phòng thủ ở phía Tây Sài Gòn. Cha bị bắt ngay mặt trận vào giờ thứ 25 nên tù lâu là chuyện thường. Trong thư cha viết, “Cha tôn trọng quyết định của con. Phải nhớ rằng, một ngày làm lính, cả đời là lính. Người lính không sử dụng quân đội như một phương tiện… Khi con có mục tiêu thì phải chiếm cho bằng được.” Kể từ đó, cha không viết về những chuyện đã rồi, thư cha toàn là những trang liệt kê về những ưu điểm của đủ thứ vũ khí các loại, và cách đối phó những tình thế nguy hiểm. Không nói ra, nhưng tôi hiểu cha muốn truyền hết nội lực, tâm huyết cho tôi, không giữ lại một chút gì.Tôi nghĩ, những vũ khí xưa ở chiến trường Việt Nam hiện nằm trong viện bảo tàng. Chiến trường Iraq ở sa mạc, trong lòng núi, ngoài thành phố, chợ búa, và bên vệ đường. Nguy hiểm nhất là những “road bomb”. Nó chỉ là những chất nổ tự tạo, rất đơn sơ, nằm lẫn trong gạch đá, rác rến phế thải ở ven đường. Ở một nơi mà kẻ thù không những chỉ là con người, mà còn là gạch đá, rác rến, cỏ cây thì đó là nơi tối nguy hiểm. Nhưng tôi không nói với cha điều này.
Ra trường một năm đơn vị tôi mới tới phiên qua Iraq. Trước đó, chúng tôi đã được thao tập nhuần nhuyễn về chiến trường mới, thực tập trên các địa hình sa mạc Black Rock (Nevada), leo lên những mỏm núi chót vót ở những vùng thạch sơn kỳ vĩ của Arizona. Mùa Đông chúng tôi len lỏi hành quân trên những rặng núi trắng xóa trên Canada. Hè, chúng tôi xuống Texas, lang thang lạc lối trên sa mạc miền viễn tây, chịu đựng cái nóng và khát cả tuần để tự mưu sinh thoát hiểm. Bộ chỉ huy đơn vị nói, phải biết sinh tồn trong “tủ lạnh” và trên “lò nướng” để khi qua Iraq làm tụi Al- Qaeda “lé” mắt.
Chiến tranh Iraq bắt đầu vào ngày 20 tháng 3 năm 2003 và ngày 1 tháng 5 khi viếng thăm chiến hạm USS-Abraham Lincoln ông Bush tuyên bố chiến tranh chấm dứt. Chính quyền độc tài bị lật đổ, chuẩn bị cho một nền dân chủ đang được tiến hành, mọi đảng phái đều được tham chính thông qua bầu cử. Ngày 13 tháng 12 cùng năm đó, Saddam Hussein bị bắt, hy vọng phục quốc tiêu tan.
Nhưng mà ở Iraq súng vẫn nổ khắp nơi. Từ thành phố đến thôn quê, rừng núi, sa mạc, nhà thờ, trường học, chợ búa, đâu đâu cũng có những ổ kháng cự. Nhỏ thì dăm ba người, lớn lên đến vài trăm. Thoạt trông họ là thường dân, cầm súng lên họ là giặc. Không phải dân Iraq chỉ chống Mỹ, mà xem ra họ chống nhau còn tàn tệ hơn. Quân kháng chiến có thể xả súng bắn vào chợ búa, nhà thờ, trường học, thậm chí đám cưới hay tang lễ.
Khi tôi đặt chân đến Mosul, pháo đài kiên cố nhất của đảng Baath do giáo phái Sunni phe Saddam thì giao tranh vẫn còn ác liệt.
“Sức mấy mới hết chiến tranh.” Thằng Michael Tea, tiểu đội trưởng mới của tôi nói. “Mỹ có rút hết quân thì chiến tranh vẫn còn.”
“Tại sao còn?” Tôi ngạc nhiên.
“Mày tưởng tụi Iraq chỉ có chống Mỹ hả? Tụi nó chống nhau còn dữ hơn chống Mỹ.” Thấy mắt tôi vẫn tròn xoe, nó nói. “Cùng là dân Iraq, gốc Ả Rập, cùng Hồi giáo, nhưng phe Sunni chống phe Shi’a, hai phe này lại cùng chống người Kurd ở miền Bắc, người Kurd lại chống chánh quyền Iraq bất kể phe nào cầm quyền, người Turkman cũng chống chánh quyền Iraq, chống Sunni, chống phe Shi’a, chống người Kurd, người Assyrian Christian chống hết tất cả các phe khác họ.”
“Trời ơi, nhức đầu quá.”
“Tao điên mất.” Mấy thằng trong đơn vị tôi ôm đầu la.
Tôi bình tĩnh hỏi, “Trong các nhóm, nhóm nào đông nhất?”
“Giáo phái Shi’a đông nhất, chiếm gần 60% dân số. Phái Sunni 20% đứng nhì. Thứ ba là người Kurd miền Bắc cũng khoảng 20%. Mấy nhóm còn lại chừng 3%.”
“Dễ ợt. Chỉ cần ổn định các phe phái lớn trước thì các phe nhỏ phải chịu phép thôi. Iraq sẽ thái bình”
Michael Tea cười lớn, “Chuyện đó con nít cũng biết. Nhưng mà làm sao để họ ngồi lại với nhau họa chăng chỉ có Trời mới biết.”
“Nhưng tại sao họ chống nhau?” Thằng Ted hỏi.
“Nguyên nhân bắt nguồn từ Giáo chủ Muhammad. Sinh năm 571, nhưng mãi đến năm 610, bốn mươi mốt tuổi, ngài mới bắt đầu rao giảng kinh Qur’an và thành lập Hồi giáo. Đến năm 632, ngài bị bệnh và nghĩ tới việc truyền ngôi. Bấy giờ, trong hàng tín đồ bắt đầu chia ra hai phe. Một phe theo kiểu cha truyền con nối, Giáo chủ không có con trai nên ủng hộ người con rể tên Ali Abu Talid nối ngôi. Nhưng phe khác cho rằng, Giáo chủ là người thừa sai của Chúa, vậy người đại đệ tử Abu Bakr mới đủ đạo hạnh tiếp tục ngôi vị đó. Cuộc tranh chấp dẫn tới việc Giáo chủ phải ra phán quyết cuối, nhưng cả hai phe đều không chờ được nên xảy ra bạo loạn và khi ấy đã có kẻ ra tay giết Giáo chủ. Từ đó đến nay không thấy ai thắc mắc, điều tra hung thủ đã sát hại Giáo chủ. Người ta bận lo tới việc tranh ngôi. Cho tới bây giờ kể như bất phân thắng bại.”
“Hơn cả ngàn năm trôi qua, Ali và Abu cũng không còn, ai lãnh đạo thì cũng đọc kinh Qur’an thôi, có chi mà tranh chấp.” Tôi nói.
“Đạo Hồi có một tỷ ba dân số khắp thế giới, giáo quy gắt gao, người lãnh đạo quyền hạn hơn Tổng Thống, vua chúa một nước. Chính Ali và Abu chắc cũng không ngờ, nếu biết trước họ đã tận diệt nhau chứ không chịu chia thành hai phe, di họa tới bây giờ.” Michael Tea nói, “Mày không tranh chấp, dễ thua thiệt lắm.”
Tôi vào quân đội, rồi được nhập tịch, tương lai đem cả gia đình sang, nghĩ tới cảnh đoàn tụ, tôi “lời” quá cỡ, thua thiệt chỗ nào. Tôi tiếp tục thắc mắc.
“Vậy giáo phái Sunni của Saddam thuộc dòng nào?”
“Họ là truyền nhân của đại đệ tử Abu Bakr, là thiểu số. Còn phái Ali con rể Muhammad là phái Shi’a thân Iran chiếm đa số.”
“Trời đất!” Tôi kêu lên, “Làm thế nào mà Saddam lấy thiểu số thắng đa số ?”
“Lấy bàn tay sắt.” Michael Tea trả lời tỉnh bơ. “Chính nghĩa, công lý hay gì gì nữa cũng bị đè bẹp thôi. Trong 25 năm, Saddam xử tử cả trăm ngàn người.”
“Ối trời ơi.” Cả tiểu đội kêu lên, thật kinh khủng.
Đêm đó, tôi trằn trọc nghĩ về Saddam. Iraq là một vùng đất cổ, có hai con sông Euphrates và Tigris vắt qua. Nơi đây được mệnh danh là cái nôi của nhân loại, bởi người ta tìm thấy dấu vết con người xưa nhất trái đất ở đây. Vì sống giữa vùng đất được bồi đắp phù sa của hai con sông nên người ta gọi nền văn minh này là nền văn minh Lưỡng Hà. Thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt được dùng làm vũ khí. Các công trình nghệ thuật kiến trúc như thành Babylon, vườn treo sau này trở thành kỳ quan thế giới cũng phát xuất từ đây. Văn hóa phát triển rực rỡ như thế nhưng dân cổ đại Iraq yếu xìu, đánh giặc dở không thể tả. Liên tiếp trải mấy ngàn năm Iraq luôn bị các chủng tộc khác xâm chiếm và cai trị. Iraq chưa bao giờ giành được độc lập, tự vẽ biên giới cho mình. Sau thế chiến thứ nhất, đế chế Ottoman thống trị Trung Đông bị Anh, Pháp, Mỹ đánh bại. Chính người Anh đã vẽ lại bản đồ cho Iraq. Nhưng Saddam và đảng Baath mới giành độc lập cho Iraq từ Anh. Như vậy kể ra Saddam là một anh hùng, chưa chắc là tội nhân. Nghĩ tới đó, không chịu nổi, tôi hỏi Michael. Nó bật cười lớn.
“Ya, ya. Saddam là anh hùng, nhưng là anh hùng của 20% dân số thôi.” Nó nạt tôi, “Ngủ đi. Sống ở đây, khóa miệng lại. Tuyên bố bậy bạ, sáng mai 60% dân số còn lại sẽ giết mày đó.”
Nhưng mà tôi vẫn không tài nào ngủ được. Nếu Saddam là người Shi’a có thể tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không độc tài, tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không xâm chiếm Kuwait, không mơ làm Thành Cát Tư Hãn thống nhất Ả Rập, tình thế sẽ khác. Và nếu tôi không mất ngủ, tình thế cũng sẽ khác.
Mới mờ sáng, đơn vị tôi nhận lệnh tới Haji Ibrahim. Đây là vùng núi cao nhất Iraq, trên 11 ngàn feet, nằm sát biên giới Iran. Bộ chỉ huy đơn vị nói, những tổ chức người Sunni đang rút về đây, họ sẽ truy quét người Kurd ra khỏi vùng núi để chiếm lấy địa bàn. Nếu để họ chiếm được khu vực này sau rất khó kiểm soát. Đây cũng có thể là con đường vận chuyển vũ khí lậu từ Iran chuyển cho khủng bố. Nhiệm vụ chúng tôi là bảo vệ người Kurd, chận đứng con đường tiếp tế vũ khí từ Iran.
Mặt trời chưa lên, ba phi đội UH-60 Black Hawk bay hàng một luân phiên thả chúng tôi xuống chân núi. Chân vừa chạm đất, chúng tôi vừa lăn vừa chạy. Phải biết biến mình thành một mục tiêu luôn luôn di động. Có thể những tay bắn tỉa của địch đang phục kích đâu đây. Cuộc hành quân bắt đầu từ giữa hai khe núi thấp nhất và tỏa ra những vùng phụ cận. Núi Iraq rừng lơ thơ, cỏ không cao quá gối, nhiều nơi chỉ có toàn đá trọc. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh, tất cả tản ra, kiểm soát những hang động trước khi tiến lên núi, chú ý hầm hố và những bãi mìn.
Tiểu đội dàn ngang, ghìm súng chầm chậm tiến lên. Kiểu đội hình này, cha tôi viết, là thế tiến nguy hiểm, vì địch nấp ở đâu đó quạt một tràng là tiểu đội tiêu. Tôi đâm sợ, thằng Michael Tea không có kinh nghiệm, đáng lẽ nên dàn hàng một tiến lên mới đúng. Tôi kêu Michael trong earphone. Nó la, “Nhìn vô ống nhắm, quan sát những điểm đen kìa.” Những điểm đen thường là những cửa hang, lấp bằng vải bạt hay ván tạp. Tôi rùn mình xuống, lò dò tiến. Mắt dán vào ống nhắm và điều chỉnh. Cái ống nhắm này tôi nài nỉ mãi mới được loại 50MM có thể phóng mục tiêu lớn ra từ 3 đến 9 lần, rất rõ. Tôi gắn ống nhắm trên khẩu M4A4 có 2 cò, vì bên dưới còn thêm bộ phận phóng lựu M203, sức công phá mạnh và xa hơn M.79 ở chiến trường Việt Nam. Tiểu đoàn trưởng nói, hành quân 2 ngày, quân trang gọn, nhẹ để dễ leo núi, không quân yểm trợ nếu có tình thế bất ngờ. Nhưng cha tôi viết, nếu đụng trận diễn tiến không lường được, cuộc hành quân có thể kéo dài. Vì vậy, hành trang của tôi nặng trĩu như một cuộc chuyển quân xa hay sắp đụng một trận lớn. Ngoài ra, cái áo khoác tactical vest nhiều túi của tôi nhét đủ thứ, 4 băng đạn dự trữ 1,800 viên, 10 quả M203, dao găm Ka-Bar bén ngót, kính hồng ngoại tuyến ban đêm, một canteen nước, hai phần MRE thức ăn liền, mặt nạ chống hơi gas vì người Kurd đã từng bị Saddam tấn công bằng hơi độc Sarin chết hàng loạt.
Lúc ngồi trên trực thăng, thấy tôi vũ trang đến tận răng, cả đội nhìn tôi như quái vật.
“Ê, mày định một mình tiêu diệt hết một tiểu đoàn hả?” Thằng Ted xỏ ngón tay tìm coi có cái túi nào còn trống trên cái áo vest phồng cứng của tôi.
“Oh! My heroes” Thằng Robert láu lỉnh, giả vờ chắp tay ngưỡng mộ. “Có mày, chắc tụi tao ở không quá.”
Tôi nổi sùng, hất tay tụi nó, nạt. “Kệ tao.” Nhưng mà nhìn lại, tôi thấy mình giống như “Cái Bang Tám Túi” thật. Đem nhiều thứ quá cũng không giống ai. Lần sau tôi sẽ rút kinh nghiệm.
Có một bàn to lớn mò mẫm bóp cái ba-lô sau lưng tôi.
“Trời ơi, nó đem theo mền nữa đây này.” Thằng Ed cười hô hố, “Mày tính định cư trên núi luôn à?”
“Câm miệng.” Tôi quát lên một tiếng, bực tức, thằng này lớ quớ khi xuống đất tôi sẽ đá cho nó một cái để đời. Nhưng mà nhìn lại, nó bự hơn, bàn tay của nó to gấp ba lần tay tôi.
Michael Tea, tiểu đội trưởng, nạt, “Shut up.” Đôi mắt nó rà một lượt, tia nhìn phát ra lửa, chúng tôi nóng ran cả người.
Có tiếng súng M4 “tạch, tạch, tạch… ” ròn rã. “Đụng rồi.” Có tiếng la sau lưng tôi. Cả bọn nằm rạp xuống. Chừng ba mươi giây, Michael ở đằng trước quay đầu ra hiệu, chúng tôi tẻ hai bên, nhường cho hai thằng mang M249 đi giữa, một thằng lui ra sau dự bị. Chúng tôi bò lên, ép sát hai bên, tiến gần cửa động. Chắc chắn có người, tôi thấy tấm bạt rung rinh, nhất định không phải dân, có lẽ tụi Baath đã đi trước một bước.
“Marhaba” Tiểu đội trưởng cầm micro gọi lớn ba, bốn lần, không ai trả lời.
Qua kính nhắm, tôi thấy tấm vải bạt nhúc nhích như có người đứng ngay sau đó. Tôi đặt tay vô cò sẵn sàng, thằng nào lú ra, tôi nả liền. “Tiên hạ thủ vi cường.” Tôi nghĩ, “Thà bắn lầm còn hơn bị bắn chết.” Tôi không muốn chết, nhất là chết ở đây. Mặc kệ ông Bush muốn xây dựng dân chủ hay phát huy tự do gì gì đó, tôi không “ke”. Tụi Iraq có chết khô trên giếng dầu, tôi cũng không “ke”. Tôi chỉ muốn sống để trở về. Để mơ, một ngày nào, cha mẹ em út tôi được đặt chân lên miền đất hứa.
“Hello. Hello. Anybody’s there?” Thằng Michael kêu muốn tắt hơi.
Cửa hang vén khẽ, một nhánh cây ló ra, đầu có cột một miếng vải trắng. Đầu hàng rồi, chúng tôi thở phào, không cần phải nổ súng. Nhưng vì đề cao cảnh giác, biết đâu địch trí trá khó lường, Michael vẫn kêu họ bằng tiếng Ả Rập.
Họ bắt đầu đi ra, dè dặt từng người một. A! tôi nhận ra, đây là dân quân Kurd, họ trang phục khác người Iraq, đàn ông mặc quần phùng (kiểu Thổ), áo sơ mi, đầu quấn khăn xếp, râu tóc ngắn gọn. Tất cả hai mươi bảy người, kể cả bốn đứa trẻ chỉ độ 12,13 tuổi. Trong bộ tộc Kurd, người nào vác nổi súng, người đó là lính, bất kể nam phụ lão ấu.
May quá, người Kurd ở đây, có nghĩa vùng này an toàn. Trong khi tiểu đội liên lạc cấp trên, tôi đi một vòng khảo sát.
Chỉ suy diễn từ cái hang này tôi cũng thấy vấn đề kiểm soát an ninh, hay ngăn chận sự chuyển vận vũ khí qua lại biên giới là một chuyện nan giải. Cửa hang nhỏ, nhưng càng vào trong càng rộng, khuôn viên chính giữa có thể chứa vài ngàn người. Ở giữa động có một hồ nhỏ, nước trong vắt. Họ nói, mùa Xuân tuyết trên núi tan, nước theo khe chảy xuống tích tụ nên hồ, đủ dùng quanh năm. Đàng sau còn có một cửa khác ăn thông, có thể thoát ra bằng vách khác. Cái cửa hậu này không phải do thiên nhiên mà do họ đào phá từ năm này qua năm khác mà thành. Tôi đi vòng lòng xem qua nơi ăn, chốn ở của họ. Có lẽ đây là trạm trú quân của quân du kích nên đồ đạc, bếp núc không có dấu vết đàn bà. Nồi niêu xoong chảo, ấm chén của họ có lẽ toàn là đồ từ thời Adam, Eva, cũ kỹ thấy phát sợ.
Người Kurd có mặt ở Iraq có lẽ từ thời khai thiên lập địa. Họ không phải giống dân Ả rập, không theo đạo Hồi. Sự khác biệt văn hóa, phong tục, ngôn ngữ, trang phục, biến họ thành cái gai trong mắt dân Ả Rập. Trải qua hàng ngàn năm, họ đã bị các chủng tộc, các thời đế chế, vua chúa khắp nơi truy sát. Nhưng mà, với sức chiến đấu dẻo dai, khả năng sinh tồn mạnh mẽ, họ đã trốn chạy liên tiếp từ đời này qua đời khác. Khi bị truy sát ở Iraq, họ bồng bế nhau qua Thổ, khi Thổ đánh đuổi, họ chạy qua Syria, khi bị Syria càn, họ trốn qua Iran, bị Iran đánh, họ lại chạy về Iraq. Họ sống du mục và chạy loanh hoanh khắp biên giới bốn nước. Lịch sử của người Kurd là lịch sử chạy. Cho tới bây giờ họ chưa có điểm dừng chân.
Tôi nghe nói, sau thế chiến thứ I, người Anh ký hiệp ước giúp họ thành lập quốc gia Kurd, thủ đô đáng lẽ là Mosul. Đổi lại, người Kurd ký kết cho Anh khai thác mỏ dầu lớn ở miền Bắc, lãnh địa Kurd. Hiệp định đã ký kết, năm 1927, Anh đã khai thác dầu. Nhưng quốc gia Kurd đến nay vẫn còn nằm trên giấy. Không phải người Anh bội ước mà người Kurd đã bỏ mất cơ hội lập quốc có một không hai. Vì đây là thời gian, Anh cũng đang thành lập Iraq. Do trốn chạy khắp nơi, người Kurd đã bị phân hóa từ đời nào cũng không biết. Khi tiến hành việc thành lập quốc gia, người Kurd ở Thổ thích chính sách của Thổ, người Kurd ở Iran thích theo khuôn mẫu Iran, người Kurd ở Syria thích theo chế độ như Syria, người Kurd ở Iraq lại không thích ý kiến các nhóm khác. Không ai nhường ai. Mấy năm sau, Iraq tuyên bố độc lập, biên giới bao trùm luôn phần đất Kurd. Và người Kurd từ đó lại tiếp tục: Chạy.
Nghe tới đoạn này, tôi cảm thấy buồn. Mong rằng người Việt tỵ nạn khắp nơi Mỹ, Anh, Úc, Pháp, sau này trở về sẽ tránh vết xe đổ như người Kurd.
Tiểu đội ra lệnh tập hợp, chúng tôi trở vào trong hang. Một vòng tròn, nửa là Kurd, nửa Mỹ. Tiểu đoàn mới thả dù một quân nhân thông dịch tới. Người Mỹ sẽ bảo vệ người Kurd, tạm thời vẽ một khu tự trị cho họ. Từ thành phố Tikrit trở lên là khu Cấm Bay, ngoại trừ máy bay Anh Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Phía Mỹ sẽ cung cấp khí giới và huấn luyện dân quân Kurd. Đổi lại, Kurd kiểm soát và phát hiện những con đường vận chuyển vũ khí lậu qua biên giới. Vũ khí và toán huấn luyện sẽ tới sau. Nhiệm vụ chúng tôi rời khỏi nơi đây và tiếp tục hành quân sau lưng núi.
Thằng Ted chửi, Robert chửi, Ed cũng chửi, còn tôi chửi… thầm.
“Tại sao họ không để tụi mình ở lại huấn luyện?” Thằng Bob cự nự.
“Đây là lệnh. Chấm hết.” Tiểu đội trưởng kết thúc.
Chúng tôi đi vòng sau lưng núi. Núi này tiếp ngọn núi kia. Màu đá tim tím, phẳng lì, dốc cao thoai thoải. Ba-lô trên vai tôi chĩu xuống, oằn vai. Mới 17:00 tức năm giờ chiều, trời đã nhá nhem. Gió thổi buốt mặt. Chúng tôi dừng lại bên một khe trũng, mấy lùm cây thưa cao quá đầu người, che khuất một cái hang. Tôi mệt đứ đừ. Tựa vào gốc cây, tôi đứng thở dốc. Mấy thằng kia quân trang nhẹ hửng, cũng mướt mồ hôi. Khi thằng Michael chạy tới, nó xua tụi tôi như xua tà.
“Đi, đi vào trong kia kiểm soát trước.” Nó chửi te tát, “Chưa kiểm soát mà đứng đây chơi, tụi bây muốn chôn thây ở đây chắc?”
Cái thằng này có thể lên tới tướng đây. Nó không hề biết thương anh em đồng đội. Mồ hôi người ta mà nó tưởng như nước lã.
Chúng tôi chạy vào trong hang, kiểm soát. Tôi mệt muốn xỉu, từ sáng tới giờ chỉ đi và chạy, chưa có hột cơm nào. Đã vậy, đôi mắt chập chập cứ muốn ríu lại. Nếu gặp địch, tôi cũng phải ngã ra ngủ một giấc cái đã, chuyện đánh đấm tính sau.
May quá, cái hang cạn, không có người. Michael nói, khi nào chắc chắn an toàn mới được nghỉ ngơi, ăn uống. Thằng Ted giỡn, “Sao nó không nói, khi nào bắt được Bin Laden, ăn cơm cũng chưa muộn.”
“Clear.” Thằng Bob từ bên sườn chạy vòng qua nói.
“Clear.” Thằng Tom ở vách sau hay đâu đó cũng la lên trong máy.
“Clear, clear.” Hai ba tiếng nữa của ai đó vọng ra. Tiểu đội trưởng liên lạc với trung tâm hành quân rồi phân công. Chúng tôi đóng chốt ở đây. Một, hai, ba, thằng Michael chỉ tôi, Ed và Ted, ba đứa bây: chốt Một. Rồi nó khoác tay, kéo một đám theo sau, đi đóng chốt Hai. Nhưng mới vài ba bước nó quay lại, chỉ xuống chân núi.
“Đêm nay, tụi bây chia nhau canh giữ hẻm núi phía dưới. Có phát hiện gì báo ngay, không được tự ý hành động.” Nó quay qua tôi, “Còn mày, tối nay, không được làm thơ, không được ngủ.”
Chưa kịp phản đối, nó khóa miệng tôi. “Đây là lệnh.”
“Yes, sir.” Tôi gào lên, tức muốn ói máu.
Ted và Ed bảo, “Ăn cái đã, từ sáng tới giờ tao đói muốn rã ruột.” Tụi nó ăn, tôi kê đầu trên ba-lô ngủ. Có nhiều khi ngủ ngon hơn ăn gấp cả ngàn lần.
Ngủ được ba tiếng, thằng Ted lôi tôi dậy. Đổi phiên. Trời bây giờ tối đen như mực. Tôi có cảm giác bị người ta quẳng vào cái lỗ đen trong vũ trụ. Vừa nằm xuống, thằng Ed, thằng Ted đã ngủ say như chết. Tôi dụi mắt, mắt cay xè. Tôi uống một hớp nước, cũng chưa tỉnh nổi. Bây giờ thiên đường không phải là thành Babylon, không phải là vườn treo Hanging Garden, không phải ở Địa Đàng, hay trên Thiên Đàng, mà là ở trong cái mền bông mềm như nhung, mướt rượt, mượt mà. Tôi đang ước được chui đầu vào đó, đánh một giấc trăm năm.
Tiếng Michael léo nhéo trong máy. Tôi trả lời rồi lôi trong ba-lô một tấm ponchos, một lọ thuốc Alert. Thuốc này uống vào bảo đảm tỉnh như sáo suốt 48 tiếng đồng hồ. Tấm ponchos, tôi trải ra tủ đều cho hai đứa bạn. Đêm trên núi cao, sương xuống lạnh lắm.
Tôi ngồi thu lu trong bóng tối. Một chút sau mắt quen với màn đêm, tôi thấy đêm không đen như tôi tưởng. Trời trong và cao vút, đêm có ngàn sao lấp lánh, một mặt trăng lưỡi liềm chênh chếch hướng Đông. Trăng lưỡi liềm cong vút, bóng nguyệt treo ơ hờ, sắc trăng mờ nhạt lung linh làm đêm trở nên huyền ảo. Không hiểu sao trong tất cả truyện cổ Ả rập người ta chỉ thấy bầu trời và ánh trăng lưỡi liềm. Bây giờ, tôi ngó trăng. Trăng cũng ngó tôi. Mà không, trăng ngó vạn vật. Tôi cũng ngó vạn vật. Đêm thật yên tĩnh. Tôi lắng nghe tiếng gió mơn man vuốt ve lưng núi, tiếng cỏ lao xao, rì rào chen lẫn trong tiếng đập đều đặn của trái tim tôi.
Ba tiếng đồng hồ trôi qua. Tôi ngồi im trong một tư thế gần như bất động. Nhìn xuống khe núi bên dưới, bốn bề vắng tanh. Có ai biết nỗi khổ của một con sói rình mồi? Phải kiên nhẫn lắm. Tôi nhìn vào khe núi như nhìn vào một khoảng không vô định.
Hai giờ sáng. Giờ này là của thằng Ed đây. Nhưng tôi tỉnh táo lắm, cho hai đứa nó ngủ thêm một chút. Bây giờ, trăng chếch về Tây. Đêm Iraq thật huyền diệu, nhưng mà tôi vẫn nhớ một vầng trăng vằng vặc xa tít ở quê nhà.
“Trời xanh, trăng có tự bao giờ?
Ngưng chén, đêm nay hỏi một câu
Người với lên trăng, vin chẳng được
Khi đi, trăng lại mãi theo nhau.”*1
Có phải ánh trăng này từ Việt Nam đã theo tôi tới đây chăng? Còn sao nữa? Sao Hôm, sao Mai đâu? Tôi nhìn trời rồi nhìn điểm “nóng” dưới khe núi. Một vì sao đang rơi trong lùm cỏ. Sao nhấp nháy, nhấp nháy. Thật vô lý. Tôi dụi mắt mình mấy lượt. Quả thật, có một ngôi sao đang rơi trong lùm cỏ. Cái gì đó hả? Tôi chộp khẩu súng, mở kính nhắm, điều chỉnh tầm nhìn. Không phải ánh sao. Điểm sáng là ánh đèn pin đang vẫy qua, vẫy lại. Tôi lấy googles*2 nhìn, đèn tắt. Nghe tiếng lách cách, thằng Ted, thằng Ed đồng nhỏm dậy. Chúng bò lại bên tôi, thì thầm.
“What’s up?” Nó hỏi, “Cái gì vậy?”
Không đợi tôi trả lời, nhanh như cắt, nó chộp súng, quan sát qua ống kính, “Oh, men.”
Tôi gọi máy, báo cáo tình hình. Michael lệnh, theo dõi mục tiêu, khoan nổ súng. Nó báo cáo về Trung Tâm hành quân. Ba thằng tôi xác định tọa độ, theo dõi địch. Có thể đây là tụi vận chuyển vũ khí tiếp tế cho khủng bố. Có một đường hầm hay hang động bí mật nào đó đi ngang qua eo núi này. Có lối vào ắt phải có lối ra. Không biết phía trước núi có ai phát hiện gì không? Không biết số lượng vũ khí là bao nhiêu và số người tham dự đường dây này? Của tổ chức nào?
Mười phút sau, tiểu đội tôi tề tựu. Vì hang động ăn sâu trong núi, không thể tiêu diệt hết nếu chỉ tấn công bên ngoài. Các đơn vị khác cũng đang bao quanh trước và sau núi. Trung Tâm sẽ chi viện một phi đội trực thăng AH-64 Apache để tấn công cả hai cửa hang. Nếu sức kháng cự lớn, trung tâm sẽ gọi các loại F mang bomb bunker*3 yểm trợ sau.
Trong khi chờ đợi chúng tôi di chuyển vào vị trí phối hợp. Mắt tôi không rời mục tiêu. Bên dưới một toán người sắp hàng một, lặng lẽ trước và sau đẩy những thùng sắt to và dài bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi nóng ruột. Có thể là những air-missile SA-7B hay SA-14, dễ di chuyển. Cả đoàn khoảng hai mươi người đã bắt đầu đi vào cửa hang. Trời ơi! Không khéo họ sẽ mất hút trong ấy hay cố thủ sẽ khó đây. Cần phải tấn công ngay. Nhiều họng súng chĩa ngay về phía họ.
Trong phút chốc, tiếng máy bay vần vũ ngay trên đầu. Cả chục chiếc đèn cực mạnh sáng rực như ban ngày. Có tiếng loa kêu gọi đầu hàng. Phía địch bỏ chạy tán loạn. Có kẻ chạy thẳng vào hang, có kẻ trở đầu súng chĩa lên bắn máy bay. Những chiếc Apache đảo vòng vòng. Chúng tôi nổ súng bắn địch. Họ buông súng, thân xác ngã vật ra. Tai tôi không nghe thấy gì. Tiếng nổ chát chúa, liên tục. Trên không, máy bay nả những chiếc rocket AGM-114 Hellfire bay liệng vô hang. Ầm. Ầm. Những tiếng nổ lớn, mặt đất rung rinh, lửa vụt sáng chóe và những luồng khói đen bốc lên cuồn cuộn. Tôi xoay nòng súng bắn như điên vào những lùm bụi gần cửa hang. Không thể để chúng bắn tỉa máy bay vì họ đang bay rất thấp.
Khi trận công phá kết thúc, tôi đi xuống dưới coi. Xác địch ngổn ngang, không biết tên nào do tôi bắn chết. Những kẻ này mặt mũi bình thường, nhưng giờ đã là những cái xác vô tri. Nếu sống, có thể có một ngày nào đó dám tôi mời hắn uống café trên đường phố Baghdad. Xem chán, tôi vào hang động, nhưng bị chận lại. Người ta đang đưa những chuyên viên vũ khí tới đây. Cũng có thể có mìn hay chất nổ tự hủy đã được gài sẵn.
Đơn vị tôi được lệnh trở về, tuy cuộc hành quân vẫn còn tiếp diễn. Về sau quân đội phải khóa kín biên giới Iran, Syria ngăn chận vũ khí đổ vào Iraq.
Từ mùa Xuân năm 2004, tổ chức Al-Qaeda với Musab-al-Zarqawi, dân quân vũ trang Mahdi của phái Shi’a, phe giáo sĩ Al- Sadr, tổ chức tấn công dữ dội khắp nơi. Trong đó Musab al-Zarqawi là tên khủng bố kinh hoàng nhất. Hắn dùng kiểu hành hình thời thượng cổ, lấy lưỡi gươm Sinbab chặt đầu tất cả các con tin ngoại quốc để áp lực Mỹ rút quân vô điều kiện. Các nạn nhân trước khi chết đều sợ hãi. Nhưng những người chưa bị bắt, chưa bị chặt đầu, chưa sợ. Thế giới Hồi giáo khắp nơi cũng phản đối. Al-Zarqawi bôi nhọ Hồi giáo. Hồi giáo không man rợ như Zarqawi. Phải chống Mỹ kiểu khác. Lực lượng vũ trang Sunni tổ chức phản công mạnh mẽ ở Fallujah bắt đầu tháng 3 năm 2004, giết bốn nhân viên an ninh cung cấp lương thực của tổ chức Blackwater. Họ cột bốn cái xác vào một chiếc xe, diễu lê khắp phố phường Iraq. Chủ ý răn đe buộc Mỹ rút quân. Nhưng cách đó thất bại. Người ta nhìn thấy tổ chức Sunni dã man, cần phải tiêu diệt. Trận đánh đẫm máu với Sunni là trận 46 ngày đêm ở Fallujah. Người Mỹ so sánh với trận Mậu Thân Huế năm 1968. Mỹ mất 95 binh sĩ, và địch bỏ lại 1,350 xác chết đủ mọi sắc tộc như Chechnyan, Iran, Syrian,… Ả Rập,…… Sau tháng 11 năm 2004 trở đi, tình hình có vẻ lắng xuống.
Người Iraq xoay qua chống Mỹ theo kiểu khác: Kiểu Việt Nam. Trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ “thua” không phải trên mặt trận quân sự, mà “thua” trên mặt trận tâm lý. Chiến tranh tâm lý mở rộng. Phong trào phản chiến, những vụ Mỹ Lai được khai thác triệt để. Các tổ chức chống Mỹ, tổ chức nhân quyền đua nhau tố cáo những vụ vi phạm nhân quyền. Nổi tiếng nhất là cô Lynndie England và anh lính Charles Graner của trại tù Abu-Ghraib. Bức hình nổi tiếng tình tứ nhất của họ là bức hình lột truồng sáu người tù và bắt họ chồng chéo nhau xếp thành hình Kim Tự Tháp. Thế giới phẫn nộ, người Mỹ phẫn nộ, lính Mỹ phẫn nộ, chính quyền Mỹ rất phẫn nộ, nhưng tôi không… phẫn nộ. Tôi nghi, cặp tình nhân này điên ư? Họ không biết hành động vậy là vi phạm nhân quyền, vi phạm quân kỷ à? Tù như chơi. Họ biết, nhưng vẫn làm. Và ai là người đang đứng chụp hình cho họ đấy? Một nhân vật thứ ba. Rõ ràng đây là một vụ vi phạm nhân quyền có dự mưu. Cặp Lynndie và Charles đã lãnh bao nhiêu tiền? Khác với vụ Mỹ Lai, tòa án quân sự Mỹ làm rùm beng chuyện này. Họ xử nặng và tuyên bố sẽ lôi hết các vụ vi phạm nhân quyền ra công lý.
Cuối năm 2005, chúng tôi được lệnh điều về miền Nam. Mười lăm ngàn quân nhân canh giữ an ninh cho các thùng phiếu. Tất cả các tổ chức, giáo phái, phe phía chủng tộc, ghét Mỹ hay thân Mỹ đều được mời tham chính. Tất cả do người dân quyết định bằng lá phiếu. Ông Bush tin, với cách này, mọi người đều có mặt trong chính quyền, người dân sẽ quyết định chính thể của họ. Chúng tôi nghĩ, ông Bush lầm. Mọi phe nhóm đều không có ý định hợp tác tham chính, mỗi một phe đều muốn giành lấy độc quyền cai trị và tiêu diệt đối lập. Họ muốn dùng bàn tay sắt như Saddam. Họ chống Mỹ vì Mỹ không để điều đó xảy ra.
Sau bầu cử, người Iraq mở những mặt trận mới. Họ tiêu diệt nhau tận tình. Người Sunni xả súng bắn vào chợ búa người Shi’a, 65 người chết. Người Shi’a ném bom vào đám cưới Sunni, 124 người chết. Người Sectarian (không biết từ đâu tới) đánh bom vào thánh đường Al-Askari của người Shi’a ở Samarra, 165 người chết. Người Sunni lái xe bom lao thẳng vào lãnh địa Sadr giết chết 215 người. Con số người chết tăng đều như người ta nhân các giải độc đắc lotto hàng tuần. Đây chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc nội chiến tương lai.
Đầu năm 2007, ông Bush tuyên bố tăng quân, tăng chi cho cuộc chiến Iraq. Mặc, trong khi người ta phản chiến khắp nơi. Tình hình Iraq không thể ổn định, nhưng cũng không thể rút quân. Tiến thoái lưỡng nan. Mỹ rút, một cuộc nội chiến chắc chắn sẽ xảy ra. Tàn khốc còn hơn thời Saddam và chiến tranh hiện tại. Người Iraq giết người Iraq. Và mọi tội lỗi sẽ đổ lên đầu người Mỹ.
Giấc mơ ổn định Iraq giống như chuyện nằm mơ ban ngày. Mọi hận thù sắc tộc, tôn giáo gì đó là những mối thù truyền kiếp có thể sẽ kéo dài cho tới ngày tận thế. Đồng minh các nước lục tục rút quân về. Người Anh cũng bắt đầu giảm quân ở căn cứ Basra.
Tiểu đoàn tôi được lệnh di chuyển từ Samarra tới Basra. Khi ngang qua Baghdad chúng tôi được viếng thủ đô, thăm thắng cảnh trong 48 giờ. Nhiều người không đi, họ ở lại trong đơn vị, chỉ ra ngoài khi có nhiệm vụ. Baghdad là tụ điểm của khủng bố, phá hoại, bắt cóc, của “road bomb” và “tự sát”. Bởi đây là nơi gây nhiều tiếng vang, lấy thành tích dễ nhất. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở, tiểu đội tôi quyết định ra ngoài. Viếng thăm xứ Ngàn Lẻ Một Đêm là điều tối ư cần thiết.
Chúng tôi mặc thường phục, lận súng ngắn, máy định vị, rồi ra đường. Baghdad lớn lắm, người đông, có con sông Tigris bắc ngang chia thành hai khu vực. Thủ đô đầy nhà cửa dinh thự, kiến trúc cổ công phu rất đẹp, khu dân cư tầm thường đơn giản, và đường sá xây dựng rất cẩu thả. Những người trẻ mặc âu phục, đa số trung niên người già ăn vận theo truyền thống. Đàn ông mặc thawbs (áo dài chấm chân), đội mũ kufiyah (mũ úp) hoặc gutra (khăn trùm) có egals (vòng vải quấn quanh đầu). Đàn bà mặc abaya (áo đen trùm kín thân người), đầu quấn khăn choàng lớn.
Bỗng dưng, thằng Ted hỏi đố, “Thằng nào thấy đứa con gái Iraq đi giày cao gót đầu tiên, tao tặng $100 dollars.”
Cả bọn xôn xao, cười như Tết. Giải thưởng hấp dẫn đây. Nhưng làm sao kiếm ra. Bọn tôi chúi mắt vào chân tụi con gái. Thật đáng kinh ngạc. Lòng vòng nãy giờ, thấy hơn trăm đứa, chẳng có mạng nào mang giày cao gót cả. Mà đàn bà đẹp là nhờ giày cao gót. Giày cao gót làm dáng đi yểu điệu, mảnh mai. Bây giờ tôi chợt hiểu ra, trông con gái Iraq không có nét dịu dàng, mềm mại là bởi tướng đi chắc nịch, hơi giống tướng đàn ông. Đã vậy, khăn áo kín mít, trông như những con quạ di động, chẳng có gì hấp dẫn. Vòng qua nhiều đường phố, cả thành phố chỉ có một loại cây duy nhất là cây Chà là. Chúng tôi lẩn quẩn khắp nơi, đường phố Iraq rất dễ lạc, nhà cửa cây cối các nơi đều giống nhau. Chiến tranh, khủng bố, bom nổ làm khắp nơi tiêu điều. Iraq ít có nhà hàng, quán xá, café… như các thành phố khác. Tiếp xúc người dân ở đây cũng đáng ngại. Họ sợ bị nghi ngờ, bị trả thù. Chúng tôi cũng sợ hỏi trúng những người ôm bom tự sát.
Chúng tôi quyết định trở về khu trung tâm, viếng dinh Saddam. Nghe nói, Saddam cũng chán đàn bà trùm chăn, trong dinh treo toàn hình Marilyn Monroe vén váy. Nhưng mà Saddam có tới 23 cái dinh, luân phiên ngủ mỗi ngày, vậy cái nào mới có hình các kiều nữ Hollywood khỏa thân, ở truồng.
“Mày tưởng Saddam có dành một cái dinh để tu chắc?”
Cả bọn cười sằng sặc.
Chúng tôi quay lại con sông Tigris, băng qua cầu. Tại đầu cầu này, năm đó, khi tiến vào Baghdad, sư đoàn 3 đã dừng lại mấy ngày chờ lệnh. Người ta đợi một sự thỏa thuận buông súng của lực lượng Vệ binh Fedayeen trung thành với Saddam, để tránh những tổn thất nhân mạng không đáng có. Lúc đó Baghdad có tin đồn, Mỹ hết đạn. Một số tay súng lập lô cốt phòng thủ ngay trên đường phố, dùng AK-47 chống xe tăng M1Abrams. Trong chiến tranh đôi lúc cũng khiến người ta chết vì những tin đồn nhảm nhí như thế.
anah_minaret
Bốn mươi tám giờ ở Baghdad qua mau, đơn vị gấp rút chuyển quân xuống Basra. Cách 55 dặm về phía Nam Baghdad là thành Babylon. Đoàn quân xa chầm chậm qua khu vực này. Thành Babylon cổ xưa, rộng tới mười cây số vuông, nơi cách đây gần ba ngàn năm người ta đã xây dựng đền đài cung điện cao ngất để lên trời. Năm 1258, Hốt Tất Liệt đã dẫn đại quân Mông Cổ đánh chiếm một nửa Châu Âu, rồi tràn qua Iraq. Lịch sử ghi, người Mông Cổ đi tới đâu, cái gì không cướp được là phá hủy. Kinh sách không đọc được đều bị đốt, kể cả những thứ về kiến trúc, y học, thiên văn. Ngọn lửa đốt cháy thành Babylon và tất cả sách vở hơn ba tháng mới tắt. Dân trong thành cũng chết sạch. Người Mông Cổ đã tiêu hủy cả một nền văn minh cổ xưa, phát triển rực rỡ nhất của loài người. Bây giờ, gạch đá ngổn ngang, phế tích tang thương, khiến chúng tôi không khỏi ngậm ngùi.
“Ôi, bên bờ sông Euphrates Thành Babylon đổ nát Mà ta còn ngồi đây Đàn đã lỡ lên dây Kẻ thù còn bắt hát, Ngợi ca về Zion Làm sao ta hát được Bài ca trên đất lạ…”
(Psalm 137)
Nhưng mà, đáng lẽ người Iraq phải thù Mông Cổ mới đúng. Đằng này, họ đi thù Mỹ. Tôi nghĩ, có thể bắt đầu do một sự hiểu lầm nào đó. Năm 1927, khi người Anh phát hiện mỏ dầu ở Kirkuk, lần đầu tiên khoan giếng, một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra. Dầu bắn mạnh và phun cao như một thứ nham thạch vọt ra từ trong miệng núi lửa. Ngọn cao tới 15 mét, dầu tràn như lũ lụt. Chỉ cần một que diêm cả thành phố sẽ ra tro. Sau chín ngày, người Anh mới dập tắt được ngọn lửa. Mặc dù đó là một tai nạn, nhưng người Iraq vẫn ngờ, đó là một đòn dằn mặt. Chớ có tự ý khai thác dầu. Kỹ thuật khoan dầu, xưa nay vẫn được giữ kín như một thứ bí mật quốc phòng.
Đoàn quân xa theo quốc lộ chạy thẳng xuống Basra. Chúng tôi vượt qua nhiều khúc sông, hồ và đầm lầy. Nơi đây là bình nguyên trù phú nhất của Iraq, nhưng đất đai không màu mỡ. Cỏ lún phún thưa, gần đầm có lau sậy, có nơi có những hàng Chà là rợp bóng như hàng dừa của Bến Tre. Vùng cằn cỗi vậy mà là cái nôi của con người ư? Thủy tổ của loài người, dấu tích ông Abraham đã từng sinh sống nơi đây. Vùng đất nghèo dân khó, nông dân ở đây đi xuồng thô, ở lều vải, chẳng có ai cất nổi một căn nhà.
Bây giờ là tháng Sáu, trời vào Hè. Nhiệt độ 120F, Iraq trở thành một cái lò nướng khổng lồ. Nóng rát mặt, rộp da. Chúng tôi băng qua một khu sa mạc. Gió bắt đầu nổi lên. Bộ chỉ huy báo động, khoảng một tiếng nữa sẽ có bão. Bão sa mạc đến bất ngờ và qua cũng trong chớp mắt. Chúng tôi dừng lại và chờ đợi. Những tấm bạt, lều, ponchos được trưng dụng tối đa. Chúng tôi phủ lên những vũ khí, đạn dược và bịt chặt các nòng súng. Cá nhân đeo mặt nạ, và chui vào xe trú ẩn. Hơn một tiếng sau, bão rú. Tiếng gió rít như xé lụa tận trên cao, rồi bão ầm ầm xô tới. Một con sóng màu vàng cuồn cuộn cuốn tung đất cát ngùn ngụt lăn qua sa mạc. Chúng tôi khum đầu xuống, đất cát đổ xuống mình lộp độp nghe như tiếng mưa rào. Khi trời im bão, chúng tôi đứng lên, rũ cát, nhìn ra xa. Mặt đất như mới thay da, một màu cát mới tinh khôi trải dài ngút tận chân trời.
Cách Basra hơn 46 dặm, chúng tôi dừng lại nghỉ. Lính đua nhau nhẩy ào ào xuống, chạy vào làng. Đây là Al-Qurnah, Vườn Địa Đàng của Adam và Eva, thủy tổ của loài người. Tất cả kinh thánh viết, trong vườn Địa Đàng đầy cây trái và bát ngát hương hoa, duy chỉ có mỗi một thứ Trái Cấm của cây Tree of Life là không ăn được. Ai ăn Trái Cấm sẽ bị đuổi ra vườn Địa Đàng, tự trồng trọt để nuôi thân, rồi sẽ già và chết. Nhưng Eva hàng ngày nhìn quả Cấm trên cây và thắc mắc. Satan dụ dỗ, Chúa cấm ăn vì ăn Trái Cấm con người sẽ thông minh như Chúa, sẽ làm được những điều Chúa muốn làm. Eva cắn ngay một miếng và nàng dành một trái cho Adam. Ăn xong, khi đến trước Chúa, lần đầu tiên Adam bỗng mắc cỡ vì thấy mình lõa lồ. Chúa biết hai người đã phạm điều cấm nên đày họ ra khỏi vườn Địa Đàng…
Bây giờ, tôi cũng muốn chạy tới xem cây Tree of Life, bằng cách này hay cách khác, tôi sẽ trộm cắn một Trái Cấm. Xin Chúa hãy đày tôi ra khỏi Vườn Địa Đàng hay nói đúng hơn đày tôi ra khỏi Iraq, tránh xa cuộc chiến này. Tôi chưa muốn chết, nhất là chết ở một đất nước không có dây mơ rễ má nào với tôi. Nhưng khi vào làng, tôi thấy một đám đông chùm nhum chờ đợi để chụp hình dưới cây Tree of Life. Một gốc cây sù sì không có lá, đang giơ những cành khô hiểm hóc nổi bật dưới trời xanh.
Tháng 7 năm 2007, 441 lính Anh thuộc nhóm Danish rời Basra. Đây có lẽ là nhóm thứ chín rời trại. Những chiếc trực thăng bốc họ rời căn cứ. Tôi ngó lên bầu trời nhìn cho tới lúc dấu trực thăng mất dạng. Tôi thèm có một ngày tôi cũng bay bổng để ra khỏi vùng đất Basra.
Chúng tôi đóng quân gần căn cứ Anh. Nơi này là ngoại ô bảo vệ Basra, bảo vệ các giếng dầu và hệ thống dẫn xuất, hệ thống khí đốt quan trọng của Iraq. Ngoại trừ thủ đô, đây là thành phố lớn nhất Iraq, dân số một triệu rưỡi. Basra còn nhiều ngành hóa học, công nghiệp khác. Chỉ nói về dầu, Iraq đã cung cấp 20% năng lượng cho thế giới. Trong cuộc chiến với Iran năm 1980, do lượng định sai, Iraq đã bất ngờ tấn công và bao vây nhiều làng mạc Iran, tiêu diệt hàng trăm binh sĩ. Nhưng sau đó Iran tập trung lực lượng phản công, đánh thẳng vào Basra, giết chết hàng ngàn lính Iraq, phá hủy hệ thống dẫn dầu của Basra. Tuy vậy, Saddam vẫn tuyên bố chiến thắng. Để bù đắp chiến phí và thiệt hại chiến tranh, Saddam quyết định cần phải nâng cao giá dầu gấp bốn, năm lần. Thế giới phải trả giá cho những sai lầm của Iraq. Nhưng Kuwait, một quốc gia kề cận Basra vẫn bán dầu với giá rẻ. Saddam lên án Kuwait phá giá dầu. Hơn nữa mỏ dầu Kuwait có một phần nằm dưới lòng đất Iraq. Năm 1990, Iraq xua quân xâm chiếm Kuwait. Cả thế giới nổi giận. Mỹ và đồng minh đánh vào Iraq. Trước khi rút quân, Saddam ra lệnh đổ hàng triệu thùng dầu xuống vịnh Persian và đốt 700 giếng dầu của Kuwait. Đầu năm 2003, để tử thủ Basra, Saddam cũng ra lệnh quấn mìn dầy đặc chung quanh 400 giếng dầu của Basra. Nhưng người Mỹ mua dầu bằng dollars, họ không bao giờ đi đốt tiền, dù là tiền của người khác. Mỹ bao vây giếng dầu, lính Iraq cũng không thể uống dầu để chiến đấu. Họ lục tục theo nhau kéo cờ trắng.
Chiến tranh kéo dài đến mệt mỏi. Để áp lực nước Mỹ rút quân, khối Ả Rập dùng đủ mọi cách tăng giá dầu. Thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ khủng hoảng năng lượng. Giá dầu nhích dần. Chính phủ mới của Iraq đã thỏa thuận ký hiệp khai thác dầu với Mỹ, Anh, Trung Quốc.
Ước mơ kết thúc cuộc chiến là ước mơ chung của tất cả mọi người. Hơn thế nữa, nó là nỗi hy vọng lớn nhất của những người lính, nhiều khi còn vui hơn niềm vui chiến thắng.
Ngày 10 tháng 9 Tư lệnh chiến trường Iraq General David Petraeus tuyên bố, Hè năm tới sẽ rút 30,000 quân số. Ông Bush cũng hứa, cho phép 5,700 quân nhân từ các đơn vị được về đón Giáng Sinh. Chao ơi! Chúng tôi nhẩy cỡn vì sung sướng. Niềm vui như được ngồi trên một tấm thảm thần của xứ sở Aladin bay lượn ra khỏi nơi đây.
“Kỳ này về, tao sẽ đi học trở lại.” Thằng Ted nói, nó vào lính để được hưởng học bổng toàn phần.
“Tao sẽ ứng cử nghị viên thành phố.” Michael Tea, đúng là con nhà nòi, ba nó là Thượng nghị sĩ.
“Tao sẽ lấy vợ và đẻ một chục con.” Edward tuyên bố thẳng thừng.
Tụi tôi hè nhau thụi nó. “Ê, mày muốn quân đội phá sản vì đám con của mày à?” Ed cười hô hố.
“Còn mày?” Tụi nó quay qua tôi.
“Ước mơ lớn nhất của tao là được nhập quốc tịch, rồi bảo trợ gia đình sang.” Tôi cười ngượng nghịu.
Cả bọn vỗ vai tôi, “Ô! Chuyện nhỏ.” Chúng nó cười khuyến khích, “ Mày sẽ được như ý.”
Hôm sau, đúng vào ngày thứ Sáu, tiểu đội nhận lệnh trực. Tiểu đội trưởng huấn thị, theo báo cáo Bộ chỉ huy tuy cường độ khủng bố giảm nhẹ, nhưng số thương vong do các vụ tấn công vào mục tiêu dân sự vẫn còn nhiều. Ở Baghdad 265 người, Kirkuk 450 người,… Dự báo, khắp nơi sắp có nội chiến.
Tôi mặc kệ nội chiến. Cứ giết nhau đi. Saddam này chết, sẽ có một Saddam khác lên thay. Còn tôi sẽ rời khỏi nơi đây, bằng cách này hay cách khác.
Chúng tôi bốn thằng, hai thằng trên lô cốt, hai thằng ở ngay cổng. Vai đeo súng, mắt nhắm ra xa, chúng tôi rảo bước trước doanh trại. Đi lính, tôi ghét nhất là đi tuần và canh gác. Nhiệm vụ chán chết người. Mà trong phim mấy thằng lính gác đều là mấy thằng chết trước.
oil refinery in iraq
Hai tiếng đồng hồ trôi qua. Trời ơi, khát. Uống bao nhiêu đi nữa, nước cũng bốc thành hơi trong bụng.Tôi nhìn qua thằng Ted, mặt mày nó khô khốc, đôi môi rộp, da đỏ bừng. Tôi tưởng tượng, chỉ cần bật tí lửa nó sẽ bốc cháy như cây đuốc sống. Nhìn nó, tôi thông cảm được tâm trạng người lính Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Tại sao tôi lại đổ mồ hôi và máu tại chiến trường này? Vì lý tưởng tự do dân chủ ư? Hai phần ba thế giới không có dân chủ, đâu phải chỉ mỗi mình Iraq? Vì Saddam độc tài, sở hữu vũ khí giết người hàng loạt à? Mỗi một nước thuộc thế giới thứ ba đều có một thằng lãnh đạo độc tài như thế. Hay vì dầu hỏa? Phong trào phản chiến ở tại nước Mỹ lên án, chính phủ đem sinh mạng người lính đi bảo vệ túi tiền cho các hãng dầu. Nhưng muốn ký kết hiệp ước khai thác dầu, hay hạ giá dầu có nhiều cách, không nhất thiết phải mở một cuộc chiến. Tổn phí cuộc chiến Vùng Vịnh lần I, sáu tuần lễ, ngốn hết 61 tỷ dollars, buôn bán dầu hỏa đâu giàu mau thế; chiến tranh Vùng Vịnh lần II trong 5 năm tiêu hết 577 tỷ. Thế giới nói, người Mỹ đánh giặc theo kiểu con nhà giàu. Nhưng trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ keo kiệt đến mức độ kinh tởm. Mỹ chi 111 tỷ cho cuộc chiến 20 năm. Lấy 111 tỷ chia cho 20, mỗi năm 5 tỷ rưỡi. Và trong thời kỳ cuối, quốc hội Mỹ đã từ chối 300 triệu dollars viện trợ để cứu lấy đồng minh.
Trưa đúng Ngọ, mặt trời đang đứng ở đỉnh đầu. Tôi đứng tỳ tay vào thành cổng, ôm chặt khẩu M4A4, đây là loại tối tân nhất, chỉ thiếu bộ phận hồng ngoại tuyến IRIS như đội đặc nhiệm. Còn cha tôi, và những người lính miền Nam chỉ được dùng loại M1 Garant hay Carbine, bắn từng phát để chống với AK-47 tối tân, hiện đại nhất Liên Xô. Dùng xe tăng M41, thiết vận xa M113 để dàn trận đánh nhau với T.54 của địch. Ví như người ta dúi cho lính miền Nam một con dao cùn trong trận tử chiến. Mãi đến sau Tết Mậu Thân, miền Nam mới được tiếp viện giới hạn M.16 và chiến xa M.48. Nhưng, đã quá muộn.
Người ta ví, chiến tranh Việt Nam là nơi tiêu thụ vũ khí thừa từ thế chiến thứ II, cứu các xưởng vũ khí Mỹ bị thua lỗ. Chiến tranh Iraq là nơi thử nghiệm những thứ vũ khí mới. Và những người lính miền Nam chết trong tay đồng minh nhiều hơn trong tay địch.
Ôi! Việt Nam. Ôi cha ơi! Những người tù sau chiến tranh bị đày đi chém tre, đẵn gỗ trên ngàn và bỏ xác trên núi rừng xa lạ.
Nước mắt tôi rơi, trái tim tôi vỡ.
“Khát quá.” Tiếng thằng Ted khàn đục. “Nước đâu?”
Nó chụp chai nước suối của thằng Ed quăng xuống, chuyền cho tôi một chai.
Không. Tôi không khát. Nước ở đây này. Nước mắt tôi rơi như mưa, và tôi đang nhấm từng giọt mằn mặn trên môi như người ta nhấm rượu.
Từ xa, một chiếc xe vận tải xuất hiện. Thằng Ted chộp ống nhìn, quan sát. Nó nói, xe giao sữa. Nó lui vào trong, ra sau cổng, lấy máy rà mìn. Tôi cũng ngó qua ống nhìn. Xe chạy băng băng. Tôi nhận ra, thằng lái xe là Abu gì đó, tôi quên mất. Nó vẫn thường giao sữa mỗi thứ Hai, thứ Năm. Nhưng hôm nay là thứ Sáu mà. Ngày thứ Sáu người Hồi giáo đồng loạt nghỉ, không có ai làm việc vào ngày này. Tôi dán mắt vào ống nhìn. “Trời ơi!” Tôi kêu lên, gần đến cổng, mà nó xả hết tốc lực.
“Xe bomb.” Tôi thất thanh kêu. Không còn kịp nữa, tôi lao ra về phía trước, đưa khẩu súng nhắm. Trong trại, đơn vị đang ăn trưa, hơn 400 lính đang ngồi đầy trong đó. Nếu bắn, thật nguy hiểm. Có thể tôi bị thương hoặc sẽ chết. Bắn thằng Abu, xe vẫn lao tới. Không suy nghĩ nữa, tôi quyết định trong nháy mắt.
Tôi bóp cò phóng lựu bên dưới khẩu M4, một quả M203 bắn vọt ra như hỏa tiễn, đâm ngay thùng xe. Tôi nhìn thấy một đường khói còn chưa tan hẳn. Một tiếng nổ kinh hồn rung chuyển mặt đất. Lô cốt rung rinh. Cát và đá mịt mù. Mà lạ quá, bỗng nhiên tôi thấy mình nhẹ hửng, bay lên, bay lên cao. Tôi nhìn xuống. Ôi, thân xác tôi kia. Tôi nằm bất động. Những mảnh kim loại cắm đầy người. Chiếc xe bomb nát như tương. Thằng Abu mất xác.
Khi cả đơn vị chạy ra, tiếng xe cứu thương kêu inh ỏi. Họ khiêng xác tôi lên. Cả tiểu đội khóc cuống cuồng.
“Còn nước còn tát.” Michael đập đập tay vô xe cứu thương.
“Hãy cứu nó đi.” Tụi nó gào lên, chạy theo xe.
“Cứu cái gì?” Tôi la lên, nhưng chúng không nghe. “Tao ở đây nè.”
Bây giờ, thế giới hai nơi. Tôi bắt đầu mơ màng chìm trong giấc ngủ. Đâu đây văng vẳng bài hát tôi yêu.
“… Trả súng đạn này. Ôi, sạch nợ sông núi rồi Tôi trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất, năm nao… ” *4
Cuối cùng thì tôi cũng tìm được con đường ra khỏi Basra.
Nov. 10/2008
NTTA
palms in basra
________________________________________________________________________
*1 Bài Nâng Chén Hỏi Trăng thơ Lý Bạch
*2 Kính đêm có tia hồng ngoại
*3 Bom phá hầm, hang động
*4 Bài hát Một mai giã từ vũ khí.
Ghi chú của tác giả: Tang lễ Sgt. Nguyễn Khắc Bình được tổ chức trọng thể với sự hiện diện của các đại diện đơn vị, đoàn thể địa phương, các cơ quan truyền thông và thứ trưởng Bộ Quốc Phòng (trên truyền hình ABC, BCS… ) Để tri ân sự hy sinh của Sgt. Nguyễn Khắc Bình, Bộ Quốc Phòng đã hoàn thành tâm nguyện NKB, bảo trợ nguyên cả gia đình anh sang Mỹ. Tôi viết truyện này với sự thành kính và xúc động trước tấm gương và tinh thần hy sinh của người lính Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ Mỹ.
 
Nguyễn thị Thảo-An
 bài đã đăng của Nguyễn Thị Thảo An

Lua Bac

sockeye salmon
Cá Hồi Sockeye về Nguồn, tranh Michael Savlen
Đêm Hai Mươi tháng Chín, trời trở gió. Qua hôm sau, thời tiết thay đổi trong nội một ngày. Buổi sáng lá còn xanh mơn, chiều về núi rừng đổi sắc. Đất trời bàng bạc, không gian tím tái một màu. Từ cõi xa xăm những ngọn gió heo may lồng lộng thổi về. Gió lùa vào khe sưởi. Gió lướt qua rừng cây. Trời đất tơi bời lá. Những chiếc lá liệng mình tán loạn trên không rồi nhẹ nhàng nằm im trên đất. Lá rụng.
Thu về.
Dưới mặt nước, chúng bắt đầu mở mắt. Những cặp đồng tử đục ngầu, thao láo nằm im trong lòng trứng. Những cái trứng màu hồng ửng, ẩn mình sau khe đá, lững lờ trôi dưới đáy sông. Mấy tuần sau, trứng vỡ, chúng quẫy đuôi rồi biến thành nòng nọc. Nòng nọc trong vắt, bụng còn dính trứng, đã tung tăng đớp bóng và ngắm mùa Thu bay qua trên bến sông.
Bây giờ trời ngớt gió, rừng cây trơ trụi. Khi chiếc lá cuối cùng cuốn trôi theo dòng nước thì  mặt sông im lìm. Gió tạnh. Nhiệt độ tuột xuống đột ngột. Khí trời như quyện lại. Trên cao mây trắng xóa, che kín cả bầu trời. Rồi tuyết lác  đác rơi.

Your browser may not support display of this image.
Đông đến.
Mặt sông đông cứng, phẳng lì trong suốt như gương. Dưới lớp băng mỏng, lũ nòng nọc rụng bụng trứng, trở thành một thứ cá lòng tong với chút lốm  đốm trên lưng. Chúng soi bóng qua những tảng băng trôi và chợt thấy mình thay da đổi thịt hàng ngày. Thân thể trong suốt của nòng nọc từ từ biến thành đục ngầu, trên lưng những vết đốm bắt  đầu dày đặc, bụng trắng bóng, vây và đuôi cũng bắt đầu dài ra.
Khi mặt sông hoàn toàn bị đông kín thì băng đã dầy. Một con cá đầu to, màu xanh sẫm, lớn như  một tảng rêu, chu miệng “ro ro” gọi chúng nó,  “Xuống đây, mau mau xuống đây.” Kêu xong, Tảng Rêu lặn tót xuống đáy. Đám lòng tong líu ríu bơi theo. Bơi ngược dòng là một con cá dài, miệng cong như  một chiếc móc quặp, trở lên thị sát mặt sông. Móc Quặp đuổi vài ba con lòng tong còn nấn ná  ở lại đớp mồi. Khi chắc chắn đã tập hợp được đầy đủ, Móc Quặp lao xuống như  một mũi tên.
Lúc bầy lòng tong chạm dưới đáy sông thì chúng giật mình. Một con cá đầu đen bóng, cứng như cái nón sắt, nằm thu lu bất động như một tảng đá chìm, chờ chúng từ lâu. Khi tất cả tề tựu, con Đầu Sắt cất giọng trầm đục, nghe như tiếng sóng vọng ầm ỳ từ dưới đáy sông. Những bài học vỡ lòng cũng bắt đầu từ đây.
“Theo truyền thuyết, cuộc đời chúng ta là một chuỗi luân hồi.” Cá Đầu Sắt nói. “Có  nghĩa là chúng ta sinh ra nơi nào thì sẽ trở  về nơi đó. Mười mấy ngàn năm, quy luật  đó không bao giờ thay đổi.”
“Tại sao?” Một con thắc mắc.
“Bởi vì chúng ta là giòng giống cá Hồi.”  Con Tảng Rêu chận ngang, giải thích. “Hồi có nghĩa là sự trở về, như hồi hương là  về quê, hồi đầu là quay đầu lại.”
“Về? Nhưng mà về đâu?” Đám cá nhỏ  lao nhao.
“Thì về cái nơi mà mình đã ra đi.”  Một con cất tiếng mai mỉa. “Tức là chỗ này nè.”
Đám cá nhỏ ngún nguẩy đuôi, búng mình lượn mấy vòng rồi đảo mắt nhìn quanh nơi chúng sinh ra,
Đầu Sắt không để mắt tới chúng, nó vẫn tiếp tục như ra lệnh. “Bắt đầu từ đây, chúng ta sẽ theo dòng sông này xuống hạ nguồn để  đi ra biển. Tới biển, chúng ta xuôi theo những dòng hải lưu để đi khắp cùng đại dương. Đi hết  đại dương, chúng ta sẽ phải bơi ngược lên thượng nguồn để trở về đây.”
“Đi là để tìm đường trở về ư?”
“Thật vô lý.”
“Chỉ tổ mất công toi.” Cả lũ  bất mãn ra mặt.
“Quy luật bất di, không thay đổi được à?.”  Một con thắc mắc.
“Ai nói vậy? Thay đổi hay không phải tùy chúng ta chứ.”  Cả bầy tức tối la.
“Không đi đâu hết, tụi tui quyết định ở  đây.” Một con đanh giọng, quyết tâm như một lời thề.
Đám cá nhỏ lại lao xao, chúng đồng loạt quay lại nhìn con Đầu Sắt.
Cá Đầu Sắt không trả lời, nó lẳng lặng chúi mặt vào một khe động như chả nghe thấy gì. Mấy con cá lớn khác cũng làm thinh.
“Chúng ta phải vượt sông ư?”
“Khi nào đi?” Có con buồn miệng hỏi.
Không biết khi nào thì chuyến viễn du bắt đầu khởi hành. Lợi dụng thời gian này những con cá nhỏ tập bơi, lặn và săn bắt mồi. Tảng Rêu, Móc Quặp, và mấy con cá lớn khác dạy lũ trẻ những kỹ năng sống dưới nước.
“Quan trọng nhất là phải biết thở.” Nghe Tảng Rêu nói, lũ trẻ cười ồ.
“Xì, ai lại không biết thở?”
“Này, bác Rêu ơi, bác nên dạy cho những con cá  chết biết thở trước đã.”
Có tiếng cười sùng sục. Nhưng cười chưa dứt đã thấy bác Rêu lấy cái đuôi to bè như cánh quạt đập ầm ầm. Mặt nước dậy sóng. Lũ cá con sặc sụa, chúng há miệng ngáp ùng ục như sắp đứt hơi. Những chùm bong bóng trong nước bay lên liên tục.
Khi bong bóng ngớt, bác Rêu kiêu ngạo bảo, “Thở, không có dễ đâu.” Đợi cả bọn hoàn hồn, bác mới giải thích, trên mặt sông nước chảy mạnh nên trong nước có nhiều không khí, thở rất dễ. Càng xuống sâu áp suất càng thấp, càng khó thở. Khi khó thở phải há miệng ra hớp thật nhiều nước vào, rồi mở hai mang để lùa nước chảy ra. Những mạng go trong mang sẽ tự động lọc không khí rồi đưa vào máu.
Dạy tới đó, bác Rêu ngưng và bảo nguyên cả  bầy thực tập. Những cái miệng hả ra và những cái mang xếp lại đồng loạt, thật nhịp nhàng. Nhưng được một chút thì chúng lại ngộp. Bọn cá con bắt đầu lảo đảo. Thấy vậy, bác Rêu hấp tấp kêu, “Trồi lên, trồi lên mau.” Lũ cá nhỏ  đua nhau trồi lên, hớp bóng. Bác Rêu dặn, thở một lúc dưới sâu thì go đầy khí, cần phải trồi lên hớp bóng để đẩy bớt khí ra.
Ít lâu sau, khi cả bầy đã thở điều hòa, bác Rêu dạy về cách dùng vây và đuôi. Nghe bác Rêu giảng, lũ cá nhỏ mới thấy chúng chỉ  mới biết nổi trên mặt nước để khỏi chết đuối chứ chưa thể gọi là bơi. Thì ra, sức mạnh của loài cá chính ra tập trung ở cái  đuôi. Đuôi cũng là một cái vây lớn. Khi quẫy nhẹ  và đều thì nó như một mái chèo đẩy con thuyền lướt êm trên mặt nước, khi gặp nguy đuôi quẫy mạnh, cả thân mình phóng đi như một mũi tên. Ngoài ra, đuôi cũng là một vũ khí để tấn công hay tự vệ. Muốn bơi đúng hướng và  giữ thăng bằng, chúng phải nhờ bảy cái vây lớn nhỏ. Hai vây nằm sau mang sử dụng như hai mái chèo, dùng để bơi và quẹo. Vây dài và lớn trên lưng ví như cánh buồm đội gió, giữ thăng bằng phía trước. Dưới bụng, có hai vây phụ, nằm hai bên song song để cân bằng toàn thân thẳng đứng. Cận  đuôi, trên và dưới thân, cũng có hai vây nhỏ  giữ hướng lái đằng sau. Khi đứng lại, bảy cái vây giương cứng như bảy cánh quạt, hay còn gọi  đó là bảy cái thắng không bao giờ mòn.
Thời gian tập bơi dài hơn dự định. Bấy giờ bọn cá mới hiểu ra, bơi khó hơn chúng tưởng. Bơi không phải chỉ là khả năng di chuyển tới lui, mà là một thứ kỹ năng để sống còn. Săn bắt mồi để mưu sinh hay trốn tránh kẻ thù đều cần phải bơi cho thật giỏi. Nhưng mà ngay cả điều này không phải ai cũng hiểu như nhau. Có nhiều con thi nhau phóng nhanh như một mũi tên vút ngược lên cao rồi ngửa cái bụng trắng muốt trở mình là đà trên mặt nước. Chúng đang biểu diễn để đoạt danh hiệu là tay bơi cừ nhất. Lúc này lão cá dữ Móc Quặp mới ra mặt. Lão phóng như bay, dùng cái mỏ cong như cái móc quật như điên vào mấy cái bụng trắng phau. Bọn cá nhỏ sợ hãi, chúng tản ra rồi lủi mất.
“Hãy coi chúng bây kìa. Muốn tự sát ư?”  Móc Quặp chửi như tát vào mặt cả bầy. “Một lũ điên.”
Lão nhiếc, “Bọn bây phơi cái bụng trắng tinh lên mặt nước để khoe với ai hử? Với Diều Hâu hay Chó Sói? Chúng đang đợi tụi mày trên kia đấy.”
Nghe Móc Quặp mắng, bọn chúng bất chợt nhìn nhau. Bỗng chúng phát hiện, cả mình mẩy đã thay đổi lúc nào không biết. Các thứ lốm đốm trên lưng hồi trước nay dầy đặc đến nỗi đã hòa thành một màu xanh diệp lục, cái màu xanh tiệp với màu rong rêu mục rã lâu ngày. Nếu nhìn từ trên cao, khó mà  phát hiện vì chúng đã lẫn trong màu bùn non nằm sâu dưới đáy sông. Mà nếu có ai nhìn ngược từ  đáy sông thì càng không thấy, những cái bụng trắng phau bấy giờ cũng hòa lẫn với màu mây, màu nắng lóa gẫy khúc khi chạm tới mặt sông. Phân cách giữa hai màu của lưng và bụng là một đường chỉ  có khóe cạnh nằm dọc theo chiều dài của thân thể. Lão Móc Quặp nói, cái đường chỉ này chính là  đường dây thần kinh cảm giác, rất nhạy bén. Nó  giúp loài cá đánh hơi được kẻ thù từ  xa hàng chục dặm. Nghe nói, bầy cá nhỏ quay đầu ngắm cơ thể mình. Mặc chúng cố gắng cách mấy cũng không sao ngắm được chính mình.
Không tự ngắm mình được chúng quay ra ngắm nhau. Qua ánh sáng lờ nhờ dưới đáy sông, bọn chúng phát hiện, một con có đường chỉ lưng óng ánh như  một sợi chỉ bạc đang im lìm trong một góc tối. Lũ cá nhỏ kêu lên, “A, con Bạc.” Chúng xúm xít bơi quanh con Bạc hỏi han, “Ê, dây thần kinh bằng bạc, chắc mày kinh khủng lắm.” Con Bạc ngạc nhiên quá đỗi, nó loay hoay mãi cũng không thể ngoái đầu để coi sợi chỉ bạc của mình.
“Mày đẹp lắm, Bạc ơi!” Có tiếng trầm trồ.
“Thật ư?”
Càng được khen, nó càng kiếm cách nhào lộn để tự ngắm mình. Trong góc tối, thân thể nó lờ mờ, nhưng đường chỉ bạc lấp lánh nhảy nhót, ngoằn ngoèo như những dải lụa múa.
“Ô! Đẹp quá.” Nhiều tiếng tán thưởng.
“Mày giống như công chúa ấy.” Bọn chúng ngưỡng mộ.
“Phải, phải.”
“Công chúa của cá Hồi ư?” Cả bọn  đồng thanh, rất điệu nghệ, “Công Chúa dẫn  đường, chúng ta sẽ bơi theo dù phải băng qua biển.”
“Có chết cũng không từ.” Một con tuyên bố  quá cỡ.
“Thôi đủ rồi.” Một tiếng quát bất chợt như xé màng tang. Lão Móc Quặp cắm phập cái mỏ  cong như cái  lưỡi câu vào khoảnh đất lồi  ở giữa.
Lão xỉa xói, “Cái đường chỉ bạc sáng choang của ngươi chỉ tổ dẫn dụ cho Cá Mập tới nuốt hết cả đàn.”
Lão đe, “Coi chừng đấy, trên sông dưới đáy, ai cũng thấy mày.”
Bạc biết, nó nghe nói, hai bên bờ sông dầy  đặc kẻ thù. Nào Sói, nào Gấu, Chồn rừng, Rái Cá, Hải Ly, Hải Cẩu,… Trên cao còn có Quạ, Diều hâu, Ưng, Ó,… những loài này mắt rất sắc, có  thể bắt cá xuyên thấu đáy sông. Móc Quặp không phải dọa suông, Bạc sáng lấp lánh như vậy rất dễ trở thành mục tiêu cho tất cả kẻ  thù.
“Số mày mạng yểu, có thể không sống được tới khi ra biển.” Móc Quặp bi quan tiên đoán, trông lão cũng buồn ra mặt.
Nguyên cả bầy đều nghe thấy, chúng trở mặt nhanh không thể tưởng. Trong tích tắc, vinh quang tắt phụt, chung quanh Bạc không còn một mống cá nào.
Lời tiên đoán của lão cá Móc Quặp ám ảnh Bạc giống như một lời nguyền. Hình ảnh những kẻ thù truyền kiếp lúc nào cũng lảng vảng, rình rập đâu đây. Nó sống trong nỗi sợ. Và tưởng tượng ra muôn vàn kiểu chết mà kiểu nào cũng thì cũng khó coi. Lội gần bờ sẽ bị Sói chụp, nhảy sóng dễ bị Gấu xơi, bơi giữa dòng thì Ưng, Quạ mổ, núp dưới khe đá hay lặn tuốt xuống đáy sông chỉ có môn chết đói. Đường nào cũng chết, nó nghĩ, suy cho cùng cái chết mới chính là kẻ thù lớn nhất trong mọi kẻ thù. Muốn sống sót trước hết phải biết chiến thắng chính mình. Nó cần vượt qua nỗi sợ, phải bơi nhanh nhất đàn, phải trở thành một tay săn giỏi nhất. Mà quan trọng hơn cả là phải cảnh giác cao độ, bởi kẻ thù nguy hiểm nhất là những kẻ thù không thấy mặt.
Vì sợ chết, Bạc dành suốt mùa Đông để tập luyện. Nó dùng đuôi, trước còn đập nước, sau đập vào đá. Tập dần đến khi xương cứng thì đuôi cũng rắn, nó phóng mình luyện bơi. Mới  đầu nó xuôi theo dòng, sau lội ngược, cuối cùng là  tập băng ngang. Bạc nghe đồn, Hải Cẩu, Hải Ly là những tay bơi không đối thủ, nhất là với những khoảng cách ngắn hoặc là lúc phải băng ngang sông. Đến khi băng qua sông đối với Bạc chỉ là một cú búng mình, nó bắt đầu tập bắn mình từ dưới đáy hay bổ nhào từ trên cao. Tập quay ngoắc, vút ngược và lộn mèo.
Cuối tháng Ba, tuyết bắt đầu tan. Trên mặt sông, nước chảy xiết, cuồn cuộn như lũ sắp về. Nguy hiểm nhất là lúc băng nứt, phát ra những tiếng kêu lắc rắc. Băng trôi lềnh bềnh khi gặp khúc sông xiết, băng va vào đá bể tan tành như những mảnh thủy tinh vỡ.
Thời tiết ấm dần. Mặt sông bây giờ là  một dòng nước luân lưu mềm mại. Trên bến sông, gió  mơn man thổi, mặt nước lăn tăn gợn sóng.
Vạn vật bừng dậy sau một giấc ngủ dài. Qua một  đêm, cành lá trở mình, những mầm non khẽ  nhú. Buổi sáng nắng tươi, từng đàn chim phương Nam ríu rít trở về. Rừng núi khoác một màu xanh mới. Và  hoa, trải dài một thảm đủ màu, đỏ vàng trắng tím rung rinh khoe sắc. Trời đất tưng bừng như bước vào mùa hội lớn.
Xuân sang.
Bạc thường trồi mình lúc mặt trời mới chớm. Lắng nghe tiếng chim non chíu chít, hòa trong tiếng gió xạc xào, và uống những giọt sương rỏ lon ton từ những chùm hoa dại xuống mặt nước. Bên bờ sông, ễnh ương, cóc nhái, cũng vươn vai mà nhẩy. Cào cào, châu chấu, mòng mòng, muỗi,… cũng bắt đầu rượt nhau ngậu xị trong những lùm lau sậy um tùm. Dưới nước, bọn cá Hồi đang thả bóng chờ mồi. Bạc cho đó cách săn lười và liều. Lũ Sói, Chồn, Rái, cũng thường ẩn mình trong bụi rậm. Chúng nó nhanh như cắt chộp ngay những chú cá lờ đờ, không sai sót. Chính mắt Bạc đã từng chứng kiến một vụ thảm sát như vậy. Sau lần đó, Bạc thường bơi trở lại khúc sông này, quặn lòng mà ngắm bộ xương có dính cái đầu cá khô queo còn mắc trên một nhành lau.
Rất nguy hiểm khi săn bắt gần bờ. Bạc sợ, nên chịu khó ra tới giữa dòng. Nó thích rượt đuổi những cánh chuồn chuồn đang la đà trên nước. Rồi phóng mình đớp lấy trước khi con mồi kêu ré. Thủ tiêu nhanh và gọn. Đôi khi Bạc cũng phân vân, không biết con vật bất chợt rơi vào chốn tối tăm đó nghĩ  gì. Con vật sợ hãi trước khi chết hay chết trước khi sợ.
Ngoài chuồn chuồn, Bạc thích săn nhiều loại riu, tép và  những loài cá nhỏ. Đánh bắt nhiều tới nỗi bây giờ trên con sông này chỉ còn độc nhất một giống cá Hồi. Nhiều khi nó tự hỏi hay đây chính là con sông Salmon.1 Sau này, Tảng Rêu bảo, sông này là Clearwater1, tức là sông Trong vì nước trong leo lẻo, còn sông Salmon cách đó gần trăm dặm, chỉ rặt một giống cá Hồi, những loài khác không sinh sản được. Mật độ cá ở đó dầy đặc nên cuộc sống khó khăn, đó là nơi quy luật “Cá lớn nuốt cá bé” triệt để nhất. Muốn tồn tại, cá Hồi phải ăn thịt lẫn nhau.
Mùa Xuân chưa qua mà trời oi bức lạ. Ánh nắng như ngọn lửa rơm táp rát da thịt. Dọc hai bờ  sông, hoa đã tàn. Nắng vàng tươi đổ tràn suốt cả  dòng sông. Nước cứ ấm dần, ấm dần lên. Cả  đàn tranh nhau trốn nắng, chúng lặn sâu dưới đáy. Không con nào còn muốn săn mồi hay đớp bóng. Cái nóng làm chúng nó lười.
Hè tới.
Phải nói chính xác đó là mùa nóng mới đúng, bởi vì Xuân chưa qua. Cũng chưa ai nghe được tiếng ve sầu. Thế mà dường như Hè đã tới. Mặt nước, chỗ nắng lấp lánh đã hâm hấp nóng.Với thời tiết này, giống cá vùng lạnh không sống được, chúng sẽ chết. Đã có con hoang tưởng về  một cái chết khô, một đám hỏa táng cho nguyên cả  đàn.
Giữa lúc cảm giác lo âu đang lan tràn khắp nơi thì  đột nhiên có lệnh, khởi hành. Chuyến viễn du bắt  đầu. Khẩu lệnh lan truyền khắp ngõ ngách. Cả  một khúc sông náo nhiệt hẳn lên. Trước nhất phải vượt sông. Cả đàn tất tả bơi, không ai muốn bị  rớt lại. Kể cả những kẻ trước thề  thốt sẽ ở lại đây suốt đời.
Bạc cũng bơi, nhưng bơi rất chậm. Giờ phút ra đi sao mà quyến luyến. Đây là quê hương, nơi nó mở mắt chào đời, biết bao là kỷ  niệm. Bạc nhìn quanh như muốn thu hết hình ảnh trong mắt một lần cuối. Một chuyến ra khơi không biết bao giờ mới trở lại, mà cũng có thể  đây chính là lần vĩnh biệt.
Bạc là con bơi sau cùng. Nó xả hết tốc lực đuổi theo một hồi lâu mới bắt kịp. Ở phía sau, nó mới có dịp thấy nguyên cả đàn. Nó kinh ngạc, không ngờ đàn mình đông vậy, ước chừng cả chục ngàn con. Chúng từ mọi ngõ ngách nào chui ra cũng không biết.
Đàn cá bơi nhanh như bay. Những con cá lớn như con Đầu Sắt, Tảng Rêu, Móc Quặp và những con lớn khác dẫn đầu. Đầu Sắt tiên phong, nó là một con cá dũng mãnh, liều lĩnh. Nghe nói trước đây nó đã từng dẫn cả đàn băng qua vùng Cá Mập. Những con Vây Rách, Đuôi Xòe, Tảng Rêu, Móc Quặp đều là những chứng nhân còn sống sót trong vụ này. Bây giờ thì cả đàn đều yên chí và đặt niềm tin vào cá Đầu Sắt. Niềm tin chính là một thứ kỷ luật  giúp đàn cá sinh tồn.
Con sông Clearwater dài gần hai trăm dặm, bắt nguồn từ  giữa hai cánh rừng lớn St.Joe và Clearwater. Từ  thượng nguồn sông chảy ngang bang Idaho, xuyên qua thung lũng Nez Perce rồi nhập vào dòng Snake.1 Đây là con sông dài và hẹp, chạy ngoằn ngoèo luồn qua những rặng thạch sơn hùng vĩ. Hai bên sông vách núi dựng đứng, lòng sông sâu, nước chảy xiết, tiếng sóng vỗ ầm ỳ dội ngược vào những hẻm núi âm u.
Qua những ghềnh thác, đàn cá không cần bơi, chúng chỉ thả mình trôi. Cả bầy khoái chí, lần  đầu tiên chúng có cảm giác buông mình mà nổi. Bạc nghĩ, chuyến viễn du thật kỳ thú, nó hồi hộp khi nghĩ tới lúc tung mình nhào xuống đại dương. Nó cũng sẽ buông xuôi để trôi theo hải lưu  đi khắp cùng thiên hạ. Nhưng chưa gì, bác Rêu đã phá nát ước mơ của nó. Bác bảo, đi càng dễ thì về càng khó, xuống hạ nguồn không cần sức thì sau này trở lên thượng nguồn phải dốc toàn lực. Bác Rêu buồn rầu, ngày xưa, khi về tới nơi thì cái đàn cũ của Bác đã kiệt sức, sau khi đẻ trứng thì tất cả đều chết. Bác ngậm ngùi, nhìn cả đàn phơi xác dài trên bãi sông làm mồi cho Chim, Quạ, Gấu, Sói, xông vào rỉa, xé mà tan nát cõi lòng.
“Cả đàn chết hết sao bác còn sống?” Bạc thắc mắc.
“Số còn sống chỉ vài phần trăm, đó là  những con cá không đẻ trứng.”
“Thế sao những con đực khác không đẻ mà vẫn chết?”
“Nó không đẻ, nhưng giúp con cái đẻ bằng cách phủ tinh lên trứng nên kiệt tinh mà chết.”
“Vậy sao bác không giúp một con cái nào đó?”
“Không ai thương, không có cặp, làm sao giúp?”  Bác Rêu ca cẩm.
“Eo ơi? Chắc là bác cô đơn lắm.” Nó  hỏi cù nhây.
“Ừ, những kẻ khốn cùng thường sống dai lắm… ” Đang nói nhưng sực nhớ ra điều gì, bác Rêu mắng, “Thôi nào, thật lắm lời. Hãy ngậm miệng lại để giữ sức.”
Nhập dòng Snake không bao lâu là tới Hells Gate. Hells Gate có nghĩa là Cửa Địa Ngục. Chỉ nghe cái tên đàn cá đã nao núng. Ôi, mới đây mà chúng phải chết ư? Để trấn an, bác Rêu bảo, đừng lo, địa ngục thật sự là ở  nhánh sông kia, bác vẫy cái vây về phía trái. Đó là  con sông Salmon, rất hiểm trở, nhiều ghềnh thác, trông như một cái thang nước bắc ngược lên trời. Sông Salmon còn gọi là Dòng Sông Không Trở Lại.1 Ở đó, sau mỗi chuyến hồi hương lên thượng nguồn, tuyệt không có một con nào sống sót.
Thật may mắn, nó không phải là cư dân của  sông Salmon. Nhưng mà ở dòng Clearwater, quê hương của nó, chuyến trở về cũng khó mà sống sót. Chả phải bác Rêu kể, cá chết cả đàn đó sao. Bạc định bụng, khi ra khơi, nó tìm dịp trốn ở lại. Đại dương mênh mông lẽ nào không tìm được một chỗ trú thân. Một hốc đá, một nhánh rong cũng đủ cho nó một mái nhà. Nó hình dung ra một cuộc sống cô đơn ngoài biển lớn, nhưng mà còn hơn là trở về để chết. Ừ, thôi thì cứ quyết định như vậy.
Chạy dài sáu mươi dặm, dòng Snake nhập vào con sông Columbia, con sông chính lớn nhất Bắc Mỹ, bắt nguồn từ Canada. Lòng sông Columbia rộng, nhiều chỗ trở thành hồ. Mặt sông êm, nước lững lờ, xanh như biển. Lúc trời mờ sáng, sương sa trắng xóa mặt sông, trời và nước liền nhau một màu lam thẫm. Ở dòng sông này, chúng nó thấy những giống cá Hồi khác. Đông nhất là những con cá Hồi của dòng Salmon, “Một Đi Không Trở Lại.”1 Nhưng mà hình như chúng nó không biết đây là chuyến đi định mệnh nên hăm hở lắm. Thật tội nghiệp, Bạc thở dài. Ngoài số phận khắc nghiệt, chúng nó là đồng loại, chỉ khác nhau đàn.
Nước chảy chậm, sức cản lớn, đàn cá phải bơi cật lực, chúng phải ra biển trước khi Hè thật sự  tới. Bấy giờ, Bạc ngó lên bờ. Hai bên thông trùng điệp. Rừng vô tận. Thông là loại cây duy nhất  ở đây, màu xanh chập chùng phủ khắp núi  đồi. Bạc dùng đuôi quẩy nhẹ, hai vây khoác nước đều, thân nó băng băng rẽ sóng. Hai hàng thông chạy giật lùi, bỏ lại đồi núi mờ nhạt  đằng sau.
Càng ngày, đêm ngắn dần. Mặt trời như chỉ qua lại giữa hai đầu sông. Đàn cá mải miết bơi. Dần dần, rừng thông thưa hẳn, những hải cảng hiện ra với những con tàu trắng có cột buồm cao ngất. Ngửi trong hơi nước có mùi lờ lợ mặn, hình như muối. Cả đàn reo lên, biển. Chúng tung tăng mừng như ngày hội. Nhiều con định bơi ngang để đo chiều rộng cửa biển. “Ê, cái lũ ngu.” Con Đầu Sắt vừa mở miệng tính quát cho một chập thì sóng đã đánh ập tới.
Buổi chiều hôm đó, một con sóng lớn cuồn cuộn đã cuốn nguyên cả đàn ném vào biển. Cái ném mạnh, chúng có cảm giác bị liệng vào một thế giới khác. Đại dương bao la vô tận, đó là một bầu vũ trụ lỏng. Và nó có cảm giác đang lạc vô cõi ta bà.
Bạc không biết mình đã ngất đi trong bao lâu. Khi tỉnh dậy, nó thấy chỉ mỗi một mình. Đàn cá  tan tác hết. Cảm giác lạc lõng giữa biển khơi làm nó hoảng. Nó sợ hãi, gào to, “Sockeyes, sockeyes…2 ” Kêu khản giọng, không có một tiếng nào vọng lại, âm thanh chỉ tan vào trong nước. Bây giờ nó bỗng thấy khó thở. Nước biển là một thứ dung dịch mặn làm nó ngộp. Bạc sặc sụa liên tục. Phải lấy thăng bằng, nó nghĩ, Bạc đứng nguyên tại chỗ và bắt đầu mở miệng hớp từng ngụm nước nhỏ rồi thở ra từ từ.
Khi hơi thở đã điều hòa, thình lình một con cá  to từ phía sau cắn mạnh vào đuôi làm nó giật bắn. Chưa kịp quay đầu thì Bạc hoa mắt. Một con cá xanh lè dí sát mặt nó.
“Ối trời ơi, Bác Rêu.” Bạc mừng rỡ.
“Đồ điên.” Tảng Rêu giận dữ, mắng. “Ngoài biển, chớ bao giờ đứng yên một chỗ, rõ  chưa?”
“Ở đây đâu có ai?” Bạc nhìn quanh quất, biển vắng ngắt, bốn bề tịch mịch như tờ.
“Sao không? Bọn cá Mập, Kình ngư, cá Kìm, Lưỡi Kiếm, Trạch, Đuối, Hải Cẩu, Hải Sư,… đầy dẫy  ở đây. Chúng có thể từ một nơi nào  đó bất ngờ xẹt tới nhanh như chớp. Có thể  mình bị đớp trước khi nhìn thấy chúng.”
“Eo ơi!” Bạc rùng mình kêu nhỏ.
“Mày đứng im giống hệt như một miếng mồi mắc vào cái lưỡi câu, trông cũng hấp dẫn lắm.” Chế giễu xong, Bác Rêu lôi nó bơi song song.
“Lúc sống trong sông, kẻ thù ta ở trên bờ. Ngoài biển, kẻ thù đều là những loài dưới nước. Chúng kề cận ta, to hơn, mạnh hơn và bơi nhanh hơn ta. Còn nữa, răng chúng sắc, ngạnh dài và  cứng như một ngọn giáo có thể đâm thủng bất cứ thứ da vẩy nào.”
Bạc chột dạ, “Như vậy, vũ khí chúng ta đâu?” Nó đảo mắt nhìn mình, nó không có râu, không có ngạnh, bảy cái vây đều mềm như bảy giải lụa.
“Chúng ta không có vũ khí.” Bác Rêu chép miệng, thở ra. Những bong bóng nước bay lên trông méo mó như những giọt lệ chảy ngược lên trời.
Bạc nao núng, “Vậy thì lấy gì chiến đấu?”
“Không có chiến đấu.”
“Trời đất! Chẳng lẽ cả đàn nhắm mắt chịu chết ư?” Bạc thảng thốt kêu.
“Chúng ta phó mạng cho trời. ” Bác Rêu nguẩy  đuôi, mắt buồn xo, “Mình chỉ ước tính thành bại trên sự thiệt hại nhiều hay ít thôi.”
“Nhiều, ít thế nào?”
“Gặp cá Mập mình chết cả đàn, nếu là  Hải Cẩu thì mất một vài con.” Bác nói thêm, “Nếu còn sống, kể như đã thắng.”
Bạc chua xót, “Không có cách nào đối phó  ư?”
“Chỉ còn nước chạy.” Bác Rêu phán, “Tẩu vi thượng sách.”
“Bốn biển mênh mông, biết chạy đàng nào?”
“Thì dùng sợi chỉ bạc trên lưng này, đó là  sợi dây thần kinh cảm giác, có thể đánh hơi kẻ thù từ xa cách mấy dặm.”
Bạc ngạc nhiên, định hỏi, “Sao sợi chỉ bạc của nó lâu nay chẳng ngửi thấy mùi gì cả?”  Thì bác Rêu đã nói, “Muốn đánh hơi phải tập cái đã. Quan trọng nhất là phải bơi nhanh hơn nữa.”
Điều này thì nó hiểu, nhận biết sự nguy hiểm gần kề mà bơi chậm thì khó thoát.
“Kể ra thì sợi chỉ bạc trên lưng mình cũng xem là thứ vũ khí duy nhất của trời ban.”  Bác Rêu tự trào.
“Ông Trời đáng ghét!” Bạc phẫn uất. Thật bất công, Tạo Hóa trớ trêu sao tước đoạt đi quyền tự vệ của chúng nó chứ.
Đàn cá bắt đầu xuôi theo dòng hải lưu, lên phương Bắc. Càng ngày khí hậu càng dễ chịu. Gió lành lạnh, nước trong suốt. Xa xa, ở tận chân trời, những dải núi tuyết nhạt nhòa hòa cùng mây trắng.
Gần đến cực Bắc, dòng hải lưu cuốn mình và  rẽ ra khơi. Nước gần bờ trong xanh, ra xa xanh thẫm, rồi xanh đậm, tới giữa khơi ở những vùng biển sâu nước đen như mực.
Bạc bơi cuối đàn. Nó thích ngắm hình ảnh cả  đàn lao vút như một đàn chim bay trong nước. Chúng lóng lánh và đẹp như những mũi tên.
Những con như cá Đầu Sắt, Tảng Rêu, Vây Rách, và Móc Quặp bơi như điên. Không biết mục tiêu  đến những đâu mà nhóm đầu đàn róng mình thi với dòng nước chảy. Đằng sau, bọn của Bạc theo muốn  đuối. Khi Bạc quay lại, một nhóm Hải Cẩu đông tới mấy chục con đang phóng mình vụt tới. Chúng há miệng táp ngang thân những con cá bơi chậm. Hai cái nanh vàng cáu như hai cây đinh cắm phập trên lưng một con Hồi xấu số. Bạc chưa kịp nhìn thấy một dòng máu  đỏ nào chảy ra thì nó đã quay ngoắc, bơi bán mạng qua mặt cả đàn. Khi bắt kịp cá Đầu Sắt, Bạc mới định hồn.
“Ông Đầu Sắt ơi! Hải Cẩu, Hải Cẩu kìa.” Bạc thở hổn hển, mắt nó tròn xoe kinh khiếp.
“Bình tĩnh nào. Lũ khốn đó bị mất dấu rồi.” Cá Đầu Sắt trấn an.
Bạc quay lại nhìn, Hải Cẩu đã biến mất. Bấy giờ, cả đàn cá đang bơi trong cảnh thanh bình. Bạc ngạc nhiên quá đỗi.
“Ô hay! Ông đã thấy à?” Nó giận dữ,  “Sao ông không cứu họ?”
“Cứu? Làm sao cứu?” Ông Đầu Sắt điềm tĩnh, “Tao chỉ cứu tao thôi.”
“Đồ ích kỷ.” Nó phẫn nộ hét.
“Hồn ai nấy giữ. Đó là quy luật của cá  Hồi, mày chưa biết à?” Đầu Sắt vẫn tỉnh bơ.
Bạc tức tối, quy luật gì tàn nhẫn vậy. Nhưng nó  chưa kịp phản đối đã có tiếng đồng thanh.
“Phải, phải, quay lại là chết.” Cá Vây Rách chen vào. “Mỗi con phải biết tự cứu mình.”
“Cứu mình tức là cứu đàn.” Đầu Sắt nói,
“Chỉ cần bất kỳ con nào sống đều có  nghĩa là đàn vẫn sống.”
“Nhưng làm sao để sống?” Hình ảnh một đám Hải Cẩu hung dữ như đàn sói biển vẫn còn  đọng trong đôi mắt nó.
“Thì mày cứ bơi như hồi nãy đó.”  Đầu Sắt buột miệng khen, “Trong phút chốc mà qua mặt được cả đàn, giỏi lắm.”
“Lúc nãy là bơi bán mạng.” Bạc nói. Cho tới bây giờ nó cũng không hiểu nó lấy sức  đâu mà vượt trong lúc rã rời như vậy.
“Lúc nào cũng bơi bán mạng, mày sẽ thọ nhất  đàn.”
Bạc nghĩ, lúc nào cũng bán mạng thì nó sẽ  đứt hơi mà chết.
Nhưng bơi bán mạng cũng chưa đủ, sau này con Vây Rách dạy Bạc hụp. Phải biết hụp, biết ngoắc phải, ngoắc trái thật bất ngờ mới thoát hiểm. Vây Rách bảo, khi bị cá Mập đuổi, có bơi bán mạng cũng không kịp. Khi cá Mập sát bên, phải hụp lúc chúng sắp há miệng, như vậy mới tránh được sức nước đang lùa vô miệng chúng. Chính Vây Rách là một bằng chứng. Có lần nó hụp, đuôi bị một con Lưỡi Kiếm chém trúng nên bị rách, đúng ra phải gọi là Đuôi Rách. Còn cách ngoắc phải hay ngoắc trái khi bị tấn công đồng loạt hoặc lúc lọt vào vùng nguy hiểm.
Bạc cảm thấy rùng mình. Nó nghe nói đàn cá  cũ trước đây đã từng đi qua biển Cá Mập, không hiểu đàn làm sao để thoát hiểm. Và trong chuyến này, chúng có phải qua những vùng đàn đã từng qua, gặp những kẻ thù mà đàn đã từng gặp? Mà dòng hải lưu này có phải cũng là dòng hải lưu xưa, xuôi trong đại dương theo những chu kỳ  bất biến? Và tại sao chúng nó phải bơi theo hải lưu kia chứ? Tại sao không rẽ qua một dòng nào khác? Hay chiếm một vùng san hô hiểm trở để trú  ngụ, an toàn hơn?
Khi Bạc hỏi Bác Rêu mấy điều này Bác lấy cái vây  đập vào đầu nó.
“Hỏi một hồi, dám chừng mày sẽ hỏi tại sao chúng ta ra biển?”
Bạc gật đầu lia, “Phải, phải. Sống trong sông, đỡ nguy hiểm hơn.”
“Ở trong sông, cá Hồi đâu lớn nổi. Mày mãi mãi chỉ là thứ lòng tong khờ dại.”  Bác Rêu lượn một vòng rồi ngắm nghía, “Coi, ra biển mấy tuần mà mày đã lớn hẳn.”
“Thật ư?” Bạc tự ngắm mình, lần  đầu tiên nó đã nhìn được cái đuôi của mình. Lưng nó cũng cứng cáp nhờ một lớp vẩy mỏng tang, trong vắt. Chao ơi, nó đã lớn, biển  đã nuôi nấng và giúp nó trưởng thành.
“Mày lớn, nhưng chưa thể gọi là trưởng thành.”  Bác Rêu chận nó lại, “Muốn trưởng thành phải làm  được những thứ tao đã làm.”
“Như những việc gì?”
“Đánh hơi, nhảy sóng.”
Bạc sực nhớ, sợi chỉ bạc trên lưng nó vẫn lóng lánh, nhưng quả, bấy lâu nay không ngửi được mùi gì. “Làm sao để đánh hơi?” Nó  hỏi.
Bác Rêu không trả lời, mà hỏi lại. “Mày biết biển có mùi gì không?”
Bạc hít một hơi sâu, rồi nén hơi, thở ra nhè  nhẹ bằng go. Nước trào qua kẻ mang, mở ra từ từ hai bên má. Một lúc sau, nó vẫn không phát hiện được mùi gì. Biển vẫn trong lành.
“Không có mùi gì là tốt rồi. Khi ngửi  được bất cứ mùi gì lạ, cần phải kêu lên, báo động cho cả đàn.”
“Rồi đàn làm gì?”
“Lúc đó tất cả túa ra mọi hướng, hễ  ngửi hướng nào không mùi thì báo tin tốt ngay. Đàn sẽ lập tức theo hướng đó.”
“Vậy lúc đó mình không cần theo hải lưu nữa  ư?”
“Tạm thời không. Nhưng sau đó phải trở lại. Theo hải lưu là bơi xuôi dòng, ngoài dòng là bơi ngược. Khi bơi ngược tốc độ chậm, khó tránh nguy nếu bị loài khác tấn công.”
Theo Bác Rêu, Bạc phát giác, tốc độ bơi chính là  một thứ vũ khí để tự vệ. Ngoài ra, đánh hơi, nghe ngóng cũng giúp chúng phát hiện được kẻ địch. Rèn luyện bản thân thôi cũng chưa đủ, chúng nó phải tìm hiểu tính cách, bản năng của các loài khác. “Biết địch, trăm trận trăm thắng.”  Bác Rêu bảo thế.
Đàn cá Hồi của dòng sông Clearwater đã ở vùng biển Alaska suốt mùa Hè năm ấy. Ở đây cuộc sống tương đối an lành. Chúng sống chung với những loài Cua biển, Tôm hùm, Bạch tuộc, Hải sâm và vô số những thủy tộc khác. Chúng cũng gặp những đàn cá Hồi khác từ những con sông quanh đó đổ về. Những đàn Hải cẩu, Hải sư, Hải mã, Rái biển, Hải ly từ khắp nơi trên Bắc Cực cũng kéo về bắt đầu mùa săn bắt. Sự nguy hiểm giăng đầy mặt biển. Để trốn tránh, đàn của Bạc lặn sâu dưới đáy. Chúng lẩn vào những rặng san hô chập chùng như những cánh rừng của biển. Bạc mò mẫm tìm những nhánh san hô bám đầy rong để đánh một giấc ngon lành.
Cuối Thu, hải lưu đổi chiều. Đàn cá lên đường xuôi Nam trước khi nước đóng băng.Trên trời những đàn chim cũng bắt đầu đi trốn lạnh.
Càng về Nam, biển càng rộng và sâu. Khi trời bắt  đầu lạnh, đàn cá Hồi đã xuống tới Thái Bình Dương. Một khối nước khổng lồ, ngút ngàn phủ kín chân trời. Nhìn ra tứ bề, trời biển giao nhau bằng một đường cong tím nhạt. Trái đất bây giờ  là một hành tinh nước. Đại dương mênh mông, đàn cá cảm thấy mình nhỏ nhoi như những giọt nước. Bỗng nhiên, chúng bơi rúc vào nhau. Tội nghiệp cho những ai sống cô đơn ngoài biển. Lần đầu tiên Bạc phân vân về ý định trốn lại biển một mình.
Mùa Đông, mùa giông bão. Sấm nổ rền trời. Lẫn trong những đám mây vần vũ, chớp giật liên hồi. Những tia lóe sáng ngời run rẩy làm bầu trời sắp rạn bể. Rồi gió giật, và mưa đổ. Sóng dậy. Mặt biển chao nghiêng. Nước chực đổ tràn ra ngoài vũ  trụ. Từng cơn sóng cuồn cuộn cuốn mình như muốn nhón tới trời xanh. Nước vút lên rồi vụt xuống, hết lớp này tới lớp khác, rượt đuổi nhau róng riết trên mặt biển.
Đàn cá lặn tuốt dưới đáy tránh bão. Suốt đêm Bạc không ngủ. Tim nó đập thình thịch. Bạc lắng nghe tiếng trống tim nhỏ xíu chen lẫn tiếng sóng gầm gừ gào thét trên không. Trời đất đang nổi cơn thịnh nộ. Cả đàn im thin thít. Cơn bão có thể  kéo dài. Bạc nằm im, lững lờ ve vẫy hai vây. Lòng nó cũng đang có sóng, sóng từng cơn, háo hức. Nếu không có đàn, nó bất kể tất cả  nguy hiểm để phóng mình lên. Bạc ước trong đời tận mắt nhìn những bông hoa sóng. Nó nghe kể, khi sóng đập vào gềnh, ngọn nước tóe ra những bông hoa sóng trắng xóa. Hoa sóng tích tắc nở, rồi rơi xuống tan ngay vào biển. Bạc ước, nếu hớp được một cánh hoa sóng ấy rồi có bị sóng dập chết cũng cam. Nhưng mà  bấy giờ, nó không thực hiện được ước mơ điên cuồng ấy trước mắt cả đàn.
Không biết thời gian trôi qua bao lâu. Bão tạnh. Cả  đàn nghếch mỏ im nghe. Những tiếng ỳ ầm tắt bặt tự bao giờ. Biển lặng như hồ. Lũ cá lao nhao, bắt đầu một con rồi hai con, bọn trẻ phóng mình vụt lên xem biển. Không ai có thể kềm giữ nổi lũ trẻ. Thời gian chờ bão dài như thời gian bị giam trong chốn ao tù.

Your browser may not support display of this image.
Khi Bạc ngoi đầu lên, biển đang tí tách mưa. Những hạt mưa nhẹ như bụi, mờ mờ như  sương giăng đầy trên biển. Và trên cao, lộ giữa bầu trời hoang tàn, lẻ loi một vầng trăng xanh vừa  đi qua trong mưa. Bạc cảm động, trong lúc nó chui rúc vào chốn an toàn thì mảnh trăng này đã chia sẻ cùng trời đất, trăng là chứng nhân duy nhất nhìn thấy bao giông bão chôn lấp nhau giữa chốn mịt mùng.
Qua đêm sau, trời xanh ngắt, trăng chót vót cao. Ánh vàng rót tràn xuống biển. Nước lấp lánh, nhấp nhô cả  một biển vàng. Đàn cá tung tăng. Bọn chúng thi phóng mình đón trăng. Khi Bạc tung mình lên, đột nhiên nó  nhìn thấy có một bóng vàng vừa rơi xuống nước. Lần nào như lần nấy, nó ngạc nhiên. Không phải trăng rơi, mà là có một con cá với sợi  chỉ lưng màu vàng, óng ánh quá đỗi. Màu chỉ của con Vàng cứ như màu trăng đã thu vào đấy. Đẹp quá, Bạc ngưỡng mộ, bất giác nó thấy sợi chỉ bạc của mình tối tăm như màu chì. Đột nhiên, giữa lúc ấy có tiếng rót vào mang nó.
“Em đẹp quá, Bạc ơi.” Một con đực to lớn, vây dài, vẩy cứng phe phẩy bên nó.
“Thật ư?” Bạc lui ra. Nó ngó con Vàng, “Kia mới đẹp kìa.”
“Không đâu, Bạc mới đẹp.” Đực chê con Vàng, “Màu bạc lóng lánh, sáng át ánh trăng.”  Nói xong, Đực dùng vây vuốt nhẹ dọc trên sóng lưng của Bạc. Bạc rùng mình, nó lảng ra xa, rồi bắt  đầu tung mình nhảy sóng. Nó muốn xem, màu bạc của nó có át được màu trăng. Cá Đực cũng phóng theo nhưng mới mấy cái Đực đã chán. Nó  lẩn quẩn bên những nàng cá khác.
Bạc siêng lắm, bất kể mưa nắng, nó tập phóng liên miên. Cao hơn nửa thước, Bạc phóng như bỡn. Những con đầu đàn cũng khen ngợi. Phóng cao một thước, xác suất sinh tồn cũng cao hơn. Bạc nhớ lại những khúc có nhiều ghềnh thác, bơi ngược dòng thật không dễ. Nó nghe nói, có truyền thuyết nói về  một loài cá Chép phóng rất cao, vượt vũ môn  để hóa thành Rồng. Nó ngưỡng mộ cá Chép lắm. Nhưng mà phóng thế nào để vượt vũ  môn, mà vũ môn là ở đâu kia chứ? Nó  hỏi Bác Rêu. Bác Rêu mắng, “Hoang đường. Rồng là  con vật tưởng tượng. Chưa có con cá Chép nào sống sót khi ra tới biển.” Bác Rêu nhắc nhở, cuộc đời ngắn lắm, phải thực tế thôi.
“Mày có ai chưa?” Lần nào gặp nó, Bác Rêu cũng hỏi câu này.
“Chưa.” Bạc đáp.
“Kiếm một đứa đi, cho có đôi có bạn.”  Bác Rêu khuyên.
Bạc ngó quanh, nó nhác thấy con Đực ve vãn con Vàng. Nó xao lòng, giọng buồn thiu.
“Để làm chi?”
“Để còn sinh đẻ chứ. Ai cũng như mày, đàn tuyệt giống.”
“Sinh đẻ làm sao?” Nó vẫn cái giọng lười biếng, đều đều hỏi.
“Khi trở về nguồn, cá cái tìm chỗ, cá  đực đào lổ, con cái đẻ trứng, mấy ngàn cái trứng, rồi cá đực phủ tinh lên trứng, tinh sẽ giúp trứng nở thành con, và tinh cũng là thức ăn để nuôi ấu trứng.”
“A!” Bạc la lên. Nó chợt nhớ ra, cũng vì  cái vụ đẻ đái này mà vợ chồng cá  đều kiệt sức chết cả đôi. Nó nghiệm ra, giống cá Hồi chết vì kiệt sức do sanh sản, chứ  nếu vượt nguồn thôi thì chưa chắc chết. Nó  vội nói điều này với bác Rêu.
“Chết không đáng sợ.” Bác Rêu buồn bã. “Cái  đáng sợ là sau khi chết, đàn của mình không ai sống cả.” Giọng bác bi thương, “Giống cá Hồi sẽ biến mất trên thế gian này.”
“Biến mất thì biến mất, sợ chi?” Bạc chán đời, “Cái vòng sinh diệt của cá Hồi là  cái vòng lẩn quẩn. Sinh ra trong sông ngòi, lớn lên giữa  đại dương, tranh đấu để sống còn, chúng ta tận sức vượt bao ghềnh thác, bơi ngược dòng để trở về, sinh đẻ rồi chết. Vậy mà chúng ta phải kéo dài cái vòng sinh tử này ư?”
Nó hỏi ngược bác Rêu, “Vậy sống có ý  nghĩa gì?”
“Ai mà biết! Nhưng mà Bạc ơi,” Giọng bác Rêu trầm hẳn, “Một hạt lúa nếu không được nẩy mầm để trở thành cây lúa thì hạt lúa đó rồi cũng sẽ mục rửa trong lòng đất  mà thôi.”
Bạc quyết định, nó không thể trở thành hạt lúa lép, nó sẽ nẩy mầm, đơm bông để cho đời trăm ngàn hạt lúa mới. Nó định, hễ con Đực trở lại có lẽ nó sẽ không từ chối nữa. Mấy ngày nó để ý tìm nhưng Đực mất tăm. Hỏi khắp nơi, lũ cá cái  đều mắng, Đực là tên dâm tặc, một cây ve vãn có  tiếng.
Bạc muốn quên Đực ngay, quanh nó còn biết bao con đực khác. Một con Hồi thân tròn, mập ú như  cá Flounder cứ lượn lờ quanh nó. Con khác  ốm nhom, thân dài như cá trạch. Có con đen thùi như cá lòi tói, con trơn lui như cá  da trơn, con thì lấm tấm rổ như cá nhám, có con đẹp dáng lại hết sức vô duyên. Nói chuyện với đám này Bạc có cảm giác Bạc nhìn thấy chúng, nhưng chúng không nhìn thấy Bạc. Trước những lời tán tỉnh, Bạc vô tri như một con cá giả, một thứ cá bằng nhựa màu mè vẫn thường thấy mắc trên các lưỡi câu.
Biển Thái Bình không bình yên như tên gọi. Giông bão trên biển không đáng sợ, nguy hiểm tiềm tàng thường nằm sâu dưới đáy đại dương. Thường thì đàn tránh đi vào những vùng nguy hiểm như vùng Cá Mập, biển tử thần (vùng nước xoáy), san hô đỏ (loại có độc), hay rừng Sứa (sứa giăng dầy như lưới). Cá Đầu Sắt, Móc Quặp, Vây Rách, Đuôi Xòe đều là những con thuộc lòng hải trình. Cái khó không phải chuyện tránh đi vào vùng nguy hiểm mà là sự chọn lựa khi gặp cả hai. Nhưng cũng có những thứ nguy hiểm mà Đầu Sắt không thèm né.Ví dụ như gặp một bầy cá Đuối mấy chục con, đàn cá mất mấy chục mạng. Gặp cá Lưỡi Kiếm, Đầu Sắt cũng không màng, kết quả có cả chục con bị xiên một lượt. Bạc nghĩ, Đầu Sắt không những có cái đầu cứng như sắt mà tim cũng bằng sắt, nó không biết thương xót cho thân phận đồng loại.
whale shark with fish
Trước khi kêu ca về điều này, Bạc chợt nhận ra đàn cá Hồi đông cả chục ngàn con của mình cũng là một thứ hung thần trong biển cả. Những vùng chúng nó qua không một sinh vật nào sống được. Quy luật cá lớn nuốt cá bé đã tiêu diệt những loài sinh vật nhỏ không có sức tự  vệ. Cái vòng sinh tử, ôi tàn nhẫn làm sao. Nhưng mà, Bạc không có thời gian thương cảm lâu, nó phát giác có mùi máu. Nó đánh hơi một lần nữa, sợi chỉ Bạc trên lưng nó rung lên, như có  một luồng điện rần rật khắp châu thân. Nó la lên, lúc ấy phía trước cũng có tiếng báo động. Một con cá trạch nhỏ vừa bị hai con Hồi cắn xé, thân cá trạch tét đôi, máu đổ linh láng, dấu máu loang dài theo đường bơi. Đây là dấu hiệu cho Cá Mập đánh hơi tìm tới. Lúc bấy giờ theo kinh nghiệm của Đầu sắt, Móc Quặp, có chạy đàng trời cũng không thoát. Cá Mập thân to, vây lớn, có bảy lớp mang, sức bơi nhanh như chớp, phút chốc sẽ tới. Nhanh như cắt, Đầu Sắt phóng tín hiệu, “tan hàng”. Đàn cá bung ra trăm hướng. Chúng tản mác khắp nơi. Cả vùng biển sâu rộng thoáng chốc trở thành một vùng trời tan tác.Your browser may not support display of this image.
Khi Cá  Mập tới, Bạc đã nấp sâu dưới một nhánh Kelp3. Kelp là một loại rong to bản, lá xanh như loài dương xỉ của biển. Lá Kelp dài mười mấy thước, rậm rạp như một rừng lau sậy an toàn. Bạc nấp trong rừng Kelp, ngước mắt nhìn lên. Một con Mập đang bơi ngay trên đầu nó, giống như chiếc tàu ngầm chầm chậm lướt qua. Thấy đàn cá rời rạc, cá Mập thất vọng. Nó há miệng lớn như chiếc tàu há mõm. Nước cuốn bầy cá ùa vào miệng Mập mạnh như nước lũ tràn bờ. Lặn sát gốc Kelp mà Bạc còn xính vính vì sức nước. Nó cắn chặt gốc Kelp, thân lơ lửng, lắt lay theo nước. Hình như là hai con Mập chứ không phải một. Chúng đảo quanh nhiều vòng như vớt cho hết đàn. Gần cả ngày hai con cá Mập mới rút lui. Đợi chúng đi hẳn, vài giờ sau mới nghe tiếng đàn “ru.. rúc” gọi nhau. Khi Bạc lên, đàn vẫn chưa tập hợp đủ. Những con đầu đàn vừa bơi quanh đó vừa “rúc.. ru.. ru” từng hơi dài. Bạc và đám còn lại cũng bắt đầu bơi theo sau phụ lực. Đầu Sắt đợi một hai ngày sau mới ra lệnh khởi hành. Qua chuyến này kiểm điểm đàn mất một phần ba.
Bạc theo đàn rời khúc biển đó mà lòng như để lại. Nó bơi nhưng thỉnh thoảng cứ quay lui, không biết có còn sót ai. Một phần ba đàn đã mất. Một phần ba thân thể bị chặt lìa. Lòng Bạc tê tái. Nhưng mà trong đàn không có con cá nào khóc cả.
Nó hỏi. Bác Rêu nói, “Mắt cá không chớp nên cá không biết khóc.”
“Không lẽ trái tim cá không biết xúc động ư?” Nó muốn giận thật sự.
“Mày có thấy nước biển mặn không?” Bác Rêu hỏi ngược nó. “Nước biển là nước mắt của tổ tiên tất cả các loài cá đã khóc  đấy.”
“Tất cả à?” Nó ngạc nhiên, “Kể  cả tụi cá Mập, cá Voi, cá Heo ư? Cá  lớn nuốt cá bé, vậy đâu có ai nuốt nổi những con này.”
“Ừ, nuốt không nổi. Nhưng mày có biết những con kình ngư chết như thế nào không?”
Bạc không trả lời.
“Đói mà chết đấy.” Bác Rêu tiếp, “Chết vì đói nên nó biết trước cái chết của mình. Khi gần chết, nó thường tìm những hố sâu nhất của biển mà cắm đầu vào. Trước khi trút hơi nó rống lên những tiếng kêu thảm thiết lắm. Đó gọi là cá Voi trầm sát.”
“Chết thì chết, tại sao phải thế?”
“Ai biết đâu.” Giọng bác Rêu bắt đầu nhão, “Chắc nó oán trời đất. Có sinh mà không có dưỡng.”
Kết thúc câu chuyện, bác Rêu buông thõng một câu, “Kể cũng tội nghiệp.”
Tội nghiệp lũ cá Mập sao? Lòng của cá Rêu  ắt rộng như biển. Thương cả kẻ thù  à? Trái tim Bạc không đủ rộng lượng như vậy.
Trải ba năm sau, chứng kiến nhiều trận sống chết  ở đời, Bạc mới hiểu. Định mệnh của loài cá  không nằm trong biển, chúng sống dưới nước nhưng chết trên bờ. Gởi xác trong biển đúng ra đã là một phúc phận.
Bây giờ, hơn lúc nào hết, Bạc nhớ quê kinh khủng. Nó hình dung ra dòng sông Clearwater, nước trong vắt, đáy in cả một mảnh trời xanh ngắt. Nó mơ  nhìn lại mấy chòm mây trắng bay. Một dòng sông êm  ả, thanh bình. Ôi ! quê nhà yêu dấu ơi!
Nỗi nhớ quê hương tha thiết của Bạc truyền  đi rất nhanh. Cả đàn đều muốn trở về. Nhưng những con đầu đàn quyết liệt phản đối.
“Về bây giờ là tự sát.” Đầu Sắt tuyên bố, “Phải chờ hải lưu đổi chiều.”
Nỗi nhớ quê nhà da diết đã làm cả đàn thất thần, ngơ ngáo. Không ngờ chính vì đó mà chúng lạc vào một tai họa bất ngờ.
Đuôi Xòe phát giác trước tiên, nó báo động, phía trước là một dãy núi san hô đỏ, loại có  độc. Trước mắt chúng, một vùng biển rựng sáng, ánh hồng rọi như vầng dương sẽ mọc lên từ  đáy biển.
Coral sea
Cá Đầu Sắt ngừng lại, ngắm hướng. Móc Quặp cũng từ phía khác bơi về, một bầy sứa nhiều như  rừng đang giăng kín khắp nơi.
Những con đầu đàn chụm đầu bàn tán. Đi hướng nào? Dãy núi san hô đỏ chập chùng, dài vô tận. Loại san hô đỏ hồng như những ngọn lửa than, chất độc lan tỏa trong nước, đàn cá bơi ngang chưa qua khỏi thì đã trúng độc. Có cách nào thoát? Không ai nghĩ ra.
Nhưng mà rừng Sứa, cũng khó mà lọt qua. Những con Sứa trắng mờ hình dáng như những chiếc dù tung cánh, phất phơ trong nước, mềm mại như những làn khói mỏng. Vướng vào Sứa như dính vào mạng nhện, khó mà cục cựa, đừng nói chi bơi.

Your browser may not support display of this image.
Rừng Sứa dầy đặc, kín mít giống như một cái lưới giăng phủ khắp nơi. Đàn cá Hồi đã bị bao vây trong một cái bẫy khổng lồ.
“Phải mở đường máu ngay.” Đầu Sắt thấy, càng lúc vòng vây càng siết lại.
jelly  fish forest
Móc Quặp, Vây Rách, Đuôi Xòe dẫn theo một đoàn một trăm con xung phong. Chúng nó phóng thật nhanh vào rừng Sứa. Đội tiên phong vừa bơi, vừa tự lăn tròn, quấn mình vào lũ Sứa. Lăn càng nhanh, càng quấn được càng nhiều, cho đến khi đội xung phong nằm im, trông chúng bây giờ như những kén tơ trắng muốt. Một con đường máu lộ ra. Đầu Sắt giục, cả đàn phóng như bay. Những con cá giống như những mũi tên phăng phăng xé nước.
Khi cả đàn thoát qua rừng Sứa, chúng để lại ba ngàn con, đàn còn non một nửa. Một sự mất mát đáng kể, trong đó có những con đầu đàn, toán cảm tử  và cả con Vàng nữa. Khi liều mạng băng qua, Bạc thoáng thấy một sợi chỉ vàng lấp lánh gói gọn trong một cánh dù trắng muốt. Không thấy con Đực, sau này Bạc cũng không biết nó sống chết ra sao.
Đêm hôm ấy, Bạc ngoi đầu lên mặt nước. Qua bao biến cố dồn dập, trên cao trời vẫn lồng lộng xanh. Một ngôi sao Hôm lấp lánh chực rơi xuống địa cầu. Một mùa Hè nữa lại tới. Hải lưu đổi chiều, dòng nước lạnh chuyển mình ra Bắc. “Về nguồn”, tín hiệu vui phát từ đầu đàn. Sung sướng, bọn Bạc mừng rỡ nhảy cỡn. Cả đàn tức tốc lên đường.
Đường về quê xa xôi diệu vợi, đàn phải tăng sức gấp ba. Chúng đua hết tốc lực, không có đêm và ngày, không có thời gian ăn uống nghỉ ngơi, không còn lòng dạ cho trăng, sao và gió nữa. Đàn cá vượt qua những rừng rong, bơi qua những rặng san hô hiểm hóc, bên dưới là những hố sâu thăm thẳm. Ban ngày, mặt trời lên, ánh sáng xuyên thấu qua mặt nước thành một một vầng hào quang mờ ảo lung linh. Chúng nương theo bóng mặt trời, đêm theo dấu những vì sao. Khi trời không trăng, bóng tối vây quanh, chúng cũng liều đầu vô vùng đen trước mặt. Bởi vì, qua đó là quê nhà.
Quê nhà xa lắc xa lơ đó,
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay4
Bạc ngó đăm đăm vào vũng đen, nhưng trong trí  hiển hiện dòng sông Clearwater. Đàn cá phải trở  về đúng vào mùa Thu. Bạc nhớ mặt sông, trời chiều nắng rải lấp lánh, hai bên bờ lá phong chín vàng. Nhớ mùa Thu, mặt sông phẳng lặng, đồi núi in bóng im lìm, Bạc thích ngắm những chòm mây trắng chầm chậm trôi bóng dưới đáy sông. Chao ơi, tim Bạc nhói  đau. Nó quay quắt nhớ những lúc nghe gió xào xạc khua hai bờ lau sậy. Đó là bản trường ca tưởng không bao giờ dứt.
“Phải về thôi,” Bạc tự nhủ. “Về  bằng mọi giá.”
Nhưng đường về không dễ, bên phía trái, ba con cá  Đuối bất chợt xuất hiện. Chúng nhào tới như ba cánh diều, đớp gọn ba con Hồi. Mặc kệ, đàn vẫn bơi. Không con nào có thời giờ chậm lại. Mấy ngày sau, lại gặp một cặp cá Heo nhào lộn như đang biểu diễn. Đàn vẫn cứ bơi, không ai để mắt tới đám xiếc. Cũng may, cặp đó không nhìn thấy chúng. Gần ra phía Bắc, đàn gặp một con cá Voi khổng lồ đang di chuyển xuống miền Nam, lưng nó phun thành từng cột nước trắng xóa. Đàn Hồi lủi vào một rặng san hô, nhưng cuộc hành trình vẫn cứ tiếp tục. Chúng len lỏi trong những cành san hô, tìm con đường ngắn nhất. Trước khi chuẩn bị vào cửa biển Astoria để nhập sông Columbia, đàn còn thấy một đám cá Chuồn xanh đậm đang bay la đà trên mặt biển. “Thôi nhé đại dương,” cả đàn ngoái đầu nhìn, “Chào vĩnh biệt.” Bạc xúc động nhìn màu xanh của đại dương, dù gì nó cũng sống ba năm ngoài biển cả.
Hành trình trở về bến sông xưa ví như  cuộc hành hương trở về đất thánh. Bạc nhận ra nó đang lần theo dấu vết của tổ tiên mười mấy ngàn năm trước.
Khi nhập vào sông Comlumbia, để tránh lưới, đàn của chúng lặn sâu dưới đáy. Chúng bảo nhau phải tránh lờ, vó, câu đặt lẻ tẻ dọc hai bên sông. Chết ở đây, với bất cứ lý do nào, cũng thật oan.
Bơi dưới đáy, sông im như tờ. Cả đàn không ai bảo ai, miệng ngậm tăm và mải miết bơi. Bạc đếm từng nhánh sông một, Cowlitz, Lewis, Rock, Willow, Umarilla5 A! Sắp tới Snake. Đàn phóng như bay. Tim Bạc đánh trống trận. Bơi ngược dòng không phải dễ. Hơn nữa, sông Snake như một dòng lũ tràn xuống, tuôn qua ghềnh thác. Hai bên bờ nhiều Chồn, Cáo, chó Sói, Gấu rình rập. Loại Gấu nâu, nhiều con đói, lội sông ra đứng giữa ghềnh chờ.
Nước từ trên ghềnh bắn tung xối xả. Bạc lấy trớn, nhảy. Qua con sóng thứ nhất. Lội ngược dòng rất chậm, đến chừng mươi thước gặp con sóng thứ hai, nhảy. Lại chật vật lội tiếp, con sóng thứ ba, lại nhảy. Bạc nhớ lúc xuôi dòng ra khơi, thật dễ  dàng. Có lúc, nó không cần bơi, cứ tự  buông mình theo dòng nước.Vậy mà bây giờ, nó  phải vận hết sức. Máu trong thân rần rật chảy, đến nỗi da nó đã ửng hồng. Nhìn quanh nhiều con trong đàn còn tệ hơn, da thịt đỏ au, giống như  màu son máu.Your browser may not support display of this image.
Khi qua Cửa Địa Ngục trên dòng Snake, đàn thấm mệt. Cũng ngay lúc sắp nhập vào con sông quê hương Clearwater, Bạc chính mắt thấy khi cá Đầu Sắt tung mình nhảy, nó rơi tòm vào miệng một con gấu. Bạc kinh hãi, nó chết khiếp khi chứng kiến cái chết của Đầu Sắt. Bạc rúng động, tội cho Đầu sắt không được nhìn thấy quê hương một lần cuối. Chết ở đây là chết trước cổng thiên đường. Mà không phải chỉ có Đầu Sắt, nhiều con cũng chôn mình trong miệng thú.
Cả đàn Hồi xúc động khi được bơi trên dòng sông xưa. Một chiếc lá khô rơi trước mũi Bạc.
“Ngô đồng nhất diệp lạc. (Một lá ngô đồng rụng)
Th
iên hạ cộng tri thu.”    (Thiên hạ biết Thu về)6
Thu đến rồi ư? Nó ngoi đầu nhìn hai bờ sông. “Bạc ơi”. Có tiếng ai đó gọi nó phía trước.“Phải gấp lên thôi.” Bạc nhảy qua một con sóng cao ngất. Một con và một con nữa, Bạc phóng mình đi, hướng về thượng nguồn. Những con cá  quẳng mình từng nấc lên tới khúc sông xưa. Bạc mệt  đứ, nó đã ngất ngư mấy chục lần như muốn chết đi sống lại.
Khi về tới khúc sông cũ. Cả đàn Hồi đều đuối. Không có ai còn sức để mừng. Và Bạc lịm mình đi như một con cá chết
Khi Bạc tỉnh lại, nó vẫn chưa thể nhúc nhích, chỉ có hai cái mang hấp háy. Nó thở nhè  nhẹ và đưa mắt nhìn quanh. Những con cá Hồi thân đã đổi sang màu đỏ, từng cặp một, vợ và chồng đang lui cui kiếm chỗ. Một cái hốc  đá, một cái khe hay một lỗ cát cũng làm thành ổ. Bấy giờ là lúc cá cái chúi xuống, rặn hết sức. Những cái trứng đỏ hồng như ngọc rơi  ra. Con đực lập tức phóng tinh phủ lên trứng. Màu đỏ hồng biến mất, bây giờ trứng được bao bọc bằng một lớp vỏ trắng phau, nằm lẫn với những viên đá cuội bình thường. Khi sinh sản xong, vợ chồng cá chìm lỉm. Bạc gọi chúng, “Ơ, này….” Nhưng chúng không nghe, thân của chúng mềm nhũn,  dập dềnh trôi theo nước.Từng cặp, từng cặp một.
Không biết thời gian trôi qua bao nhiêu lâu, khi Bạc hồi sức, chung quanh nó không còn ai. Nó bơi lung tung, hớt hãi như một kẻ điên. “Đàn ơi. Hồi  ơi… Ớ ơ… Hồi.”. Không có tiếng vọng về. Không có dấu hiệu sống sót nào quanh đây. Nó kinh hãi quá đỗi. Đàn chết hết rồi ư?
Khi Bạc xông xáo bơi xuống phía dưới, gần bên bãi đá, một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra. Bãi đá đỏ ối. Cả đàn đang phơi xác tại đây. Lũ chó sói, chim chóc đang róc rỉa gần hết. Dưới ánh nắng, xương xóc, gan ruột đã bắt đầu khô. Không thấy bác Rêu đâu, tim Bạc thắt lại, lòng quặn đau. “Ôi, trời ơi.” Nó muốn khóc thật lớn, nhưng nước mắt loài cá đã khô lâu lắm rồi.
Chợt một tiếng động làm lay mặt nước. Bạc quay lại, sau lưng nó khoảng mươi con Hồi còn sống. Tụi nó  cũng đang xúc động. Cả bọn rúc vào nhau, tìm hơi ấm. Chúng là những con sống sót.
Đêm Hai Mươi Tháng Chín, trời trở gió. Qua hôm sau, thời tiết thay đổi trong nội một ngày. Buổi sáng lá còn xanh mơn,…
Bạc ngoi đầu khỏi mặt nước, nó nghiêng mắt ngắm mùa Thu bay.
Rồi Đông đến.
Và Xuân sang.
Bạc ngơ ngác, đây là bến sông xưa, là quê  nhà, sao thấy nhiều đổi khác. Hoa đã nở, nhưng màu không thắm như xưa. Những lau sậy hai bên bờ cũng eo xèo, không có gió. Trời cao tít, mây và trăng đều nhạt.Và những tiếng ễnh ương, cóc nhái của ngày xưa cũng im bặt từ lâu.
Bạc bắt chước ông Đầu Sắt, khởi đầu bài học vỡ lòng. “Theo truyền thuyết, cuộc đời chúng ta là một chuỗi luân hồi. Có nghĩa là chúng ta sinh ra nơi nào thì sẽ trở về nơi đó. Mười mấy ngàn năm, quy luật đó không bao giờ thay đổi.”
“Ai nói vậy?” Một con cá nhỏ xíu, ngóc mỏ khinh khỉnh.
“Mốc xì, ai muốn đi thì đi. Tụi này không đi  đâu hết.” Một con lòng tong hỗn láo cướp lời.
“Ai bảo ông đi, ông đục bỏ mạng.” Tiếng của một tên nhóc, không biết trời cao đất rộng là  gì.
Bạc lẳng lặng quay đầu vô vách khe. Nó lạ  lẫm trên chính quê nhà của nó. Lần đầu tiên, nó có cảm giác lạc lõng giữa đàn. Bạc chợt ước, phải chi nó chết ở một nơi nào đó trên đường trở về. Để cái quê hương dấu yêu kia mãi mãi vẫn còn trong tim của nó.
Nov.15/2008

Nguyen Thi Thao An 

1Sông Salmon ( River of No Return), Clearwater, Snake là những con sông chính, đầy cá Hồi của tiểu bang Idaho, USA. River of No Return là biệt danh cho sông Salmon vì có nhiều ghềnh thác hiểm trở.
2Sockeyes tên một loại cá Hồi vùng Bắc Mỹ.
3 Kelp là một loại rong biển, lá lớn, mọc dưới đáy biển. Ngành công nghiệp hóa học Mỹ dùng Kelp chế biến thành hàng trăm loại sản phẩm từ lá Kelp.
4 Thơ Nguyễn Bính
5 Cowlitz, Lewis, Rock, Willow, Umarilla là tên những nhánh sông nhỏ đở ra dòng sông Columbia của bang Oregon, US. 6 Thơ Lý Bạch