Monday, September 20, 2010

Hai người phi công ... mất vợ


Khoảng đầu thập niên 80, vào một buổi tối mùa thu, trong một nhà hàng Việt Nam ở phía tây ngạn thành phố New Orleans, khoảng gần 2 trăm cựu quân nhân mà đa số là cựu quân nhân KQ, thân hữu và gia đình của họ ngồi gần nghẹt kín mấy chục cái bàn. Mùa bão tố đã qua, mọi người thở phào ra nhẹ nhỏm và bắt đầu nghĩ đến những ngày lễ lớn sắp tới như Lễ Tạ Ơn, Lễ Giáng Sinh, Tết Tây, Tết ta. Thêm vào đó, mùa chơi banh bầu dục cũng vừa bắt đầu, làm nhiều người, nhất là những người có máu đỏ đen trở nên bận rộn.
Chiều hôm ấy, tất cả đang chờ đợi một nhân vật vô cùng quan trọng ...
Trong khi chờ đợi, lòng xuân phơi phới, họ uống bia, uống rượu, nói chuyện tầm phào với nhau và đặc biệt, đốt thuốc lá thở khói dầy đặc nhà hàng làm cho mấy bà mấy cô muốn nghẹt thở nhưng không ai thắc mắc, không ai than phiền. Lý do là các bà đã chịu đựng chuyện này từ bao nhiêu năm nay, từ những ngày còn ở Việt Nam cơ cực nên đã quen rồi. Các ông có quyền hút và chúng tôi có quyền... ngửi khói, than phiền hay phản đối là ... không tốt, là ăn hiếp chồng, là sẽ có chuyện.
Ở gần cuối phòng, chỗ quan trọng nhất sát ngay sân khấu, dĩ nhiên, là một cái bàn dành cho những nhân vật quan trọng mà người Việt mình thường gọi là bàn VIP. Bàn VIP được trải khăn bàn trắng để tăng phần trịnh thượng, muốn nhấn mạnh cho mọi người thấy rằng bàn này khác với những bàn khác, đều có khăn bàn đỏ.
Trên bàn VIP là một sô nước đá, 6 chai sô đa Perrie, 4 gói thuốc lá 555, 4 cái gạc tàn, 2 chai Martin XO tức là loại rượu mắc tiền nhất và một bình hoa thật lớn ngay phía giữa. Ở trước bình hoa là một cái huy hiệu Không Quân Việt Nam bằng đồng với mấy chữ “Tổ quốc Không Gian” ôm một con rồng, coi rất là oai phong lẫm liệt. Ngoài ra, còn có muỗng nỉa các loại được sắp xếp một cách rất là mỹ thuật và khéo léo.
Ai nhìn vào bàn VIP thế nào cũng phải đoán rằng bàn này có lẽ được dành cho một nhân vật quan trọng của Không Quân Việt Nam.
Ai đoán như thế thì quả thật là ... đúng, bởi cái nhân vật sẽ ngồi vào bàn đó, và cũng cái nhân vật mà mọi người đang chờ đợi ấy chính là cựu thiếu tướng Nguyễn Kít, cựu tư lệnh Không Quân Việt Nam, cựu thủ tướng Việt Nam Cộng Hoà...
Cách đây 1 tháng, khoảng 500 cái thiệp mời đã được gởi đi đến khắp mọi người trong thành phố, từ lính cho đến dân đều nhận được. Thiệp mời một số được gởi bằng bưu điện nhưng đa số là được chuyền tay bởi anh em cựu quân nhân Không Quân.
Thiệp mời được ký tên bởi cựu thiếu tướng Nguyễn Kít, nội dung muốn mời anh em cựu quân nhân và gia đình đến dùng một bữa cơm tối thân mật để bàn về một chương trình làm ăn vĩ đại, với số vốn lên tới khoảng 100 triệu đô la, do nhà băng lớn nhất địa phương là nhà băng First Jefferson National Bank bảo trợ và cho mượn vốn. Thiệp còn cho biết là sẽ có đại diện của nhà băng tới dùng cơm và nói chuyện.
Thiệp mời không nói rõ chương trình làm ăn là chương trình gì, nhưng hai cái tên, một là cựu thiếu tướng Nguyễn Kít và hai là First Jefferson National Bank cũng đủ làm cho người được mời cảm thấy mình bỗng trở thành một nhân vật quan trọng và ... có tiền. Mẹ bố, ngày xưa ở Việt Nam được tới gần ông cựu thiếu tướng đã là một vinh hạnh, làm đếch gì mà được ông tướng mời đến “dùng cơm tối thân mật” để bàn chuyện làm ăn như thế này. Thêm vào đó, con số 100 triệu đô la và cái tên nhà băng First Jefferson National Bank làm cho ai cũng thấy mình là một tay có tiền, có chút máu... tài phiệt trong người.
Nhưng dân New Orleans không phải ai cũng ngu cả...
Có một tay kia, ngày xưa làm công chức lớn ở bộ tài chánh, sang đây làm nghề kế toán, sau khi xem thiệp, nhăn mặt lại và nói với anh Không Quân vừa mời mình:
-Bố láo. Hai vợ chồng cha Kít nổi tiếng là tổ sư lường gạt ở Cali, mụ vợ chuyên môn mượn tiền không trả, ông chồng đi ăn không bao giờ trả tiền, dân Cali chán quá không ai cho lừa nữa nên mới vác mặt sang đây ăn lừa tiếp, làm đếch gì có tiền mà tính tới chuyện làm ăn tới 100 triệu đô la?
Ông Không Quân nghe thế thì đỏ mặt lên chống chế:
-Ông nói thế là ông không biết gì. Ông tướng quen lớn, oai danh khắp bốn phương trời, ông tướng muốn mượn bao nhiêu tiền chả được.
Ông công chức vốn là hạng phổi bò, nói liền:
-Ông là quân nhân, ngày xưa chỉ biết lái tàu bay, ông không biết gì mới là đúng. Để tôi giảng cho ông nghe về cách làm việc của nhà băng bên Mỹ...
Thế là ông bỏ ra nửa tiếng đồng hồ để giảng cho ông phi công nghe về cách nhà băng ở Hoa Kỳ làm việc rồi kết luận:
-Nhà băng cho vay thì phải chắc ăn, ông tướng nhà anh có gì để bảo đãm cho số tiền họ cho mượn? Vốn liếng thì không có một xu, tài thì tôi không biết làm được cái gì, và người Mỹ họ không có tình cảm, họ không cần biết tiếng tăm, họ chỉ biết lợi nhuận, làm sao họ dám cho ông tướng mượn tiền? Nói tới đây tôi mới nhớ, thiệp mời hoàn toàn không nói gì về cái chương trình làm ăn của ông tướng là gì. Ông nghĩ ông ấy sẽ làm gì ở cái thành phố ăn chơi này với số vốn 100 triệu đô la?
Ông phi công không trả lời được, lắc đầu. Ông công chức vỗ vai ông phi công nói:
-Chỗ quen biết, tôi khuyên ông, chớ có bỏ tiền ra mà đầu tư gì cả. Vợ chồng cha Kít này nổi tiếng là dân chuyên môn đi lừa thiên hạ, đừng để bị lừa.
Ông phi công không còn phản đối nữa mà bắt tay cám ơn từ giã ông công chức. Lên xe, ông phi công vừa mở máy vừa suy nghĩ. Cách đó chừng một năm, khi vợ chồng cựu thiếu tướng Nguyễn Kít từ giã Cali về định cư ở New Orleans, đủ thứ tiếng đồn đi theo vợ chồng ông. Toàn là những tiếng đồn xấu, tuyệt không có gì tốt. Là một cựu phi công, giống như bao nhiêu cựu phi công khác, anh là một người rất ngưỡng mộ ông cựu tư lệnh, cho nên anh coi những tiếng đồn đó không ra gì. Nhưng sau một năm tiếp xúc và sinh hoạt với ông tướng, anh lần lần thấy những tiếng đồn đó không phải vô căn cứ hoàn toàn. Cộng thêm hôm nay, sau khi những lời nói đến từ một người mà anh rất quý mến, anh bắt đầu suy nghĩ lại...
Cha này không chừng nói đúng, nhưng anh đã trót nhận lời làm trưởng ban tổ chức cho buỗi cơm thân mật vì một lý do thầm kín mà chỉ có mình anh biết nên đành phải làm tròn bổn phận mình. Từ văn phòng kế toán, anh lái xe thẳng tới nhà hàng “Saigon Mây Bay”.
Nếu ai để ý một chút thì phải nhận ra rằng, bất cứ cái bảng hiệu nào ở hải ngoại này mà có mang những cái tên có dính dáng tới gió, mây, trời, chim, không gian và núi non thì chủ nhân của nó nhất định phải là một ông cựu quân nhân Không Quân. Nhà hàng này cũng thế, chủ nhân của nó là một cựu phi công Việt Nam. Hai người là bạn thân nhau từ những ngày còn ở Việt Nam, cần gặp nhau để bàn nốt chương trình tổ chức sắp tới.
Chủ nhân nhà hàng “Saigon Mây Bay” đang ngồi hút thuốc uống bia với mấy người bạn thì nhìn thấy người bạn trưởng ban tổ chức bước vào, mặt mày không có vẻ gì vui lắm. Anh nói ngay:
-Nam ơi, chuyện gì mà mặt mày coi hãm tài thế? Vợ không cho ... chơi tối qua à?
Nam, tên người phi công vừa rời văn phòng kế toán, lắc đầu cười nhẹ, trả lời nửa dối nửa thật:
-Mẹ, vợ không cho làm tình thì tao còn cám ơn. Nhưng hôm nay tao thấy hơi mệt một chút thôi. Sao, còn mày thế nào, Thanh?
Thanh kéo cái ghế:
-Mày nói đúng. Tụi mình ngày càng già mà mấy mụ thì chẳng già chút nào, cứ ăn uống cho phỡn ra rồi đòi hỏi đủ thứ, làm sao trả bài cho đầy đủ như hồi còn trẻ được. Thôi, ngôi xuống đây uống một chai cho nó đỡ mệt đã rồi mình bàn chuyện. Tao có chuyện quan trọng cần hỏi mày.
Một màn bắt tay diễn ra, Nam ngồi xuống giữa mấy người, đa số cũng là cựu quân nhân Không Quân.
Sau vài hớp bia, ông chủ quán vào ngay vấn đề:
-Theo như lời yêu cầu của mày, tao đã chuẩn bị 250 phần ăn, giá 25 đô la một phần, tổng cộng là 6250 đô la.
Nam hơi giật mình:
-25 đồng một phần, sao mắc thế?
Thanh đưa tay ra phản đối:
-Tao chưa nói hết. Nhà hàng sẽ có một bàn VIP đặc biệt dành riêng cho ông tướng và quan khách không lấy tiền. Nội cái tiền rượu và tiền thuốc lá và tiền hoa của cái bàn VIP này cũng mất toi của tao hết ngàn đô la rồi. Không Quân mình không tổ chức thì thôi, còn tổ chức thì phải ra tổ chức, nếu không bằng Huỳnh Hữu Bạc ngày xưa thì cũng phải... gần gần.
Nam thành thực nói:
-Mày làm ăn thì phải có lời, tao không dám thắc mắc, tao chỉ sợ anh em than phiền thôi.
-Lại cứ lo xa. Hôm nọ uống rượu với ông tướng, ông tướng bảo tao là nhà băng First Jefferson National Bank sẽ đài thọ cho bữa tiệc này mà.
Nghe như thế thì mặt mày Nam bỗng rạng rỡ lên:
-Như thế thì tốt quá, nhưng sao tao không nghe ông tướng nói gì cả.
Thanh chưa kịp trả lời thì Nam lại tiếp:
-Nói thật với mày, mấy hôm nay tao đang lo về vụ này. Mình mời người ta tới ăn nói là để bàn chuyện làm ăn mà “chạt” tiền thì coi kỳ quá. Nếu nhà băng First Jefferson National Bank chịu đài thọ cho bữa tiệc thì còn gì tốt bằng.
Thanh vỗ vai bạn:
-Mày cứ lo xa, hôm tao nhậu với ông tướng, ông tướng mấy lần bảo tao là nhà hàng phải cho ăn uống như thế nào đừng để mất mặt ông tướng, tiền bạc không thành vấn đề. Ông tướng còn yêu thương Không Quân lắm, ông tướng không muốn Không Quân Việt Nam bị thiên hạ coi thường.
Nam nói:
-Nếu ông tướng muốn thế thì mình khỏi cần phải đặt cái bàn ngay cửa để thâu tiền của bá tánh.
-Mày là trưởng ban tổ chức, mày muốn làm sao thì tuỳ mày, phần tao, tao chỉ cần thâu đủ số vốn 6250 đồng là tao vui rồi...
-Mày khỏi phải lo chuyện đó, nhưng để tao check lại với ông tướng xem đã. Chừng nào tao nghe tận miệng ông tướng nói thì tao mới yên tâm.
Ông chủ lại nói:
-Khi mày nói chuyện với ông tướng, mày nói luôn là nhà hàng cần một nửa số tiền đặc cọc tức là 3000 đô la. Tao cần số tiền đó càng sớm càng tốt.
-Mày để tao cố gắng.
-Cố gắng cái con khỉ. Tao nói trước, không có tiền đặc cọc là không có bữa tiệc cơm thân mật đâu nhé.
Nam lườm bạn:
-Từ từ, làm gì mà ép nhau thế?
-Tao có ép là ép nhà băng First Jefferson National Bank vì chúng nó là người trả tiền chứ có ép mày đâu. Bố khỉ, Không Quân Việt Nam sao mà yếu thế. Thôi uống đi mày...
Nói thì dễ nhưng muốn gặp ông tướng không phải là chuyện dễ. Lý do là vợ chồng ông tướng không có... nhà riêng, không có chỗ ở cố định. Hôm thì vợ chồng ông tá túc ở nhà ông tá này, hôm khác lại ghé qua chỗ khác sang hơn, gần hơn. Vì thế, Nam tìm ông mấy lần mà không gặp. Thêm vào đó, Nam vẫn còn phải đi làm suốt ngày, chỉ rảnh được buổi chiều, nhưng buổi chiều thì ông tướng luôn luôn đi nhậu, không ai biết ở đâu. Nam bực mình vô cùng, nhưng đã lỡ nhận trọng trách, không thể bỏ ngang được.
Nam đã bực mình như thế nhưng có người còn bực mình hơn cả Nam. Đó là Thanh, chủ quán “Saigon Mây Bay.” Vì Nam không có nhà để nghe điện thoại cho nên mỗi ngày, Thanh để khoảng 30 cái lời nhắn trong máy của Nam. Mới đầu thì còn nhẹ nhàng nhưng càng lúc thì càng găng, và cuối cùng thì biến thành hăm doạ sẽ huỷ bỏ bữa tiệc.
Phần Nam, sau một ngày lao động mệt nhọc, về nhà bấm máy thì lại bị nghe những lời than phiền, mới đầu anh cũng thấy áy náy, nhưng sau đó thì chán nản quá, anh lờ luôn. Và chính Nam, anh cũng đã nghĩ đến chuyện huỷ bỏ bữa tiệc...
Nhưng may cho cả hai người, cỡ chừng tuần lễ trước khi tổ chức, không hiểu nhờ ngọn gió nào thổi, ông tướng nhà ta dẫn một bọn đàn em chừng 7 người kéo vào quán Saigon Mây Bay ăn nhậu.
Thanh đang ngồi ngáp vặt nhìn thấy thì liền đứng lên dơ tay chào ông tướng theo kiểu nhà binh, xun xoe:
-Kính mời thiếu tướng và anh em ngồi.
Ông tướng cũng chào đáp lễ theo kiểu nhà binh, chia nhau ra ngồi và hỏi tới tấp:
-Quán cậu có gì ăn ngon nhất?
Chủ quán chưa kịp trả lời thì ông tướng lại hỏi:
-Quán cậu có cổ nhắc XO, đem ra vài chai coi. Sô đa Perrier nhé, thứ khác không uống được.
Cứ thế và cứ thế, chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ, trên bàn đã toàn la liệt đồ ăn cùng thức uống. Toàn là thứ mắc tiền. Rượu thì XO, thức ăn toàn là tôm hùm, bí tết. Mọi người ăn uống tận tình, cười nói oang oang, văng tục bừa bãi, ai nhìn vào đố đoán được một người ngồi trong bàn ngày xưa cũng đã làm đến tư lệnh Không Quân Việt Nam.
Chờ cho đến khi ông tướng ăn xong, Thanh mới bạo gan hỏi:
-Thưa thiếu tướng, em muốn hỏi thiếu tướng một việc nhỏ ạ.
-Thức ăn nhà hàng này cậu làm ăn được đấy, tôi gởi lời khen... hỏi thì hỏi đi.
-Thưa thiếu tướng, thiếu tướng còn tính tổ chức đêm nói chuyện về cái công ty lớn của thiếu tướng không ạ?
Ông tướng đưa cặp mắt ngầu đỏ sau gần nửa chai XO nhìn Thanh hỏi:
-Tổ chức chứ sao không? Sao cậu hỏi thế?
-Trình thiếu tướng, em có nói chuyện với ông Nam. Không biết ông ấy có nói với thiếu tướng chưa.
Ông tướng bỗng đâm cáu:
-Chuyện gì thì nói mẹ nó ra, ỡm ờ mãi.
-Thưa thiếu tướng, em muốn xin thiếu tướng cho một ít tiền đặc cọc trước ạ. Thiếu tướng thông cảm cho em, sở hụi cho mấy trăm người lớn lắm ạ, em lo không xuể.
Ông tướng xem như ngố ra một lúc nhưng rồi ông hỏi ngay:
-Thế thì thằng Nam nó tổ chức ở đây à?
-Vâng, thưa thiếu tướng, em tưởng thiếu tướng biết ạ?
Ông tướng không trả lời mà lại đưa mắt nhìn một vòng khắp nhà hàng. Ông hơi nhăn mặt lại một chút rồi hỏi:
-Chỗ này chứa được bao nhiêu người?
-Thưa khoảng 250 thì dễ dàng. 300 thì hơi chật một tí ạ.
-Thế thì thằng Nam nó không tìm được chỗ nào lớn hơn và sang hơn một chút sao?
Nam cúi mặt nhìn xuống đất, ráng che dấu một nỗi buồn vừa dấy lên trong lòng:
-Trình thiếu tướng, đối với Việt Nam mình thì chỗ này là sang nhất và ngon nhất vùng West Bank đấy ạ.
Ông tướng lắc đầu mấy cái:
-Đúng là chốn nhà quê nhà mùa có khác. Cái quán tí tẹo bằng lỗ mũi như thế này mà cũng dám đặt tên là Saigon Mây Bay. Phải gọi Hố Nai ruồi đậu thì nghe nó đúng hơn... hì hì...
Bọn đàm em ông tướng ngồi trên bàn, nghe như thế thì bật cười lên rầm rộ. Lại có thằng còn đập cả bàn, làm như đắc ý lắm. Lạ một điều là Thanh cũng cất tiếng cười theo.
Vợ Thanh đứng trong quầy nhìn ra, chỉ muốn chạy tới tát cho lão già ... thiếu tướng ăn nói mất dạy một bợp tai rồi muốn ra sao thì ra nhưng chẳng dám. Chị đang suy nghĩ xem thử ai sẽ trả tiền bữa ăn tối hôm nay. Đây không phải là lần đầu tiên ông tướng đến ăn ở đây rồi lờ đi, người nọ dục người kia rồi cuối cùng chẳng có ai trả tiền cả. Chị quyết tối nay sẽ gọi cảnh sát nếu họ không trả tiền ăn nhậu.
Ông tướng bỗng ngưng cười. Ông hỏi:
-Thằng Nam chịu trách nhiệm buổi tổ chức này. Nó đâu rồi?
-Trình thiếu tướng em không biết ạ.
-Cậu gọi nó ra tôi hỏi chuyện coi.
-Vâng ạ.
Thanh quay lui đi vào trong quầy, nhấc ống điện thoại, quay số. May quá, Nam là người bốc máy lên nghe.
-Nam đấy hả, Thanh đây mày. Ông tướng đang ăn nhậu ở tiệm tao, ổng cho gọi mày ra gấp.
-Mày chờ đấy, 25 phút nữa tao có mặt.
Gác điện thoại, Thanh thở phào ra một cái. Có thằng Nam đây thì thế nào ông tướng cũng phải xì tiền ra...
Thanh trở ra. Ông tướng lại bảo:
-Này, cho thêm chai XO, mấy chai Perrier, thêm nước đá, thuốc lá.
Thanh trả lời:
-Thưa thiếu tướng, có ngay ạ.
Cứ như sự thường thì khách càng gọi nhiều thì chủ nhân càng mừng, nhưng không hiểu sao, Thanh lại thấy lo lo trong bụng.
Nửa tiếng đồng hồ sau, Nam đã đứng trước mặt ông tướng Kít, dơ tay lên chào kiểu nhà binh, giống y hệt như ngày xưa anh còn ở trong quân đội.
Ông tướng cười, chỉ vào cái ghế sát đó:
-Ngồi xuống đây. Uống cổ nhắc nhé.
-Vâng, xin cám ơn thiếu tướng.
Khỏi cần ai mời, Thanh cũng tự động kéo ghế ngồi xuống cạnh Nam...
Sau vài ly rượu, ông tướng hỏi:
-Cậu nhận trách nhiệm tổ chức buổi tiệc, công việc đến đâu rồi?
Thanh trình bày mọi chuyện rồi kết luận:
-Tôi có hai vấn đề trước mặt xin phép muốn hỏi thiếu tướng.
-Hỏi đi.
-Thưa thiếu tướng, thứ nhất, tôi nghe nói nhà băng First Jefferson National Bank sẽ tài trợ bữa tiệc này, và nếu thế, mình có cần phải thâu tiền của người dự tiệc hay không.
-Dĩ nhiên là nhà băng họ đài thọ, nhưng cậu vẫn phải thâu tiền trước để nếu cần thì mình có tiền để xài vào việc khác.
Nghe như thế thì cả Nam lẫn Thanh đều nẩy lên những thắc mắc trong đầu nhưng không tiện hỏi đành lờ luôn. Nam hỏi sang câu hỏi thứ hai, rắc rối hơn:
-Thưa thiếu tướng, ông chủ nhà hàng đây cần 3000 đô la tiền đặc cọc cho bữa tiệc ạ.
Một câu hỏi ai cũng tưởng là khó khăn lắm nhưng ông tướng trả lời liền một cách dễ dàng, không cần phải suy nghĩ:
-Đã nói nhà băng đài thọ thì họ phải trả tiền. Cậu cứ ứng trước cho tôi đi, nhà băng sẽ trả lại cho cậu.
Nam ú ớ, mặt mày tái xanh lại với số tiền khổng lồ mà mình không có:
-Thưa thiếu tướng, em ... em ... không có... không có...
Ông tướng cười dễ dải:
-Cậu có bao nhiêu cứ đưa trước cho ông chủ, trước sau gì thì nhà băng họ cũng trả mà.
Nam nhìn Thanh. Thanh nhìn Nam. Hai người nhìn nhau, máu họng muốn trào ra nhưng không nói được gì. Ông tướng lại buôn một câu xanh dờn khác:
-Nói cho các cậu biết, tiền tôi đầu tư bạc triệu vào cái chương trình này, nhưng tôi làm gì giữ tiền mặt trong người. Các cậu làm việc với nhau. Mai mốt đại công ty thành công lớn, tiền vào như nước thì công của các cậu không nhỏ đâu đấy nhé...
Nam muốn phản đối nhưng lưỡi như cứng lại. 3000 đô la là một số tiền tuy không lớn lắm nhưng đối với những người làm việc lãnh lương tháng như Nam là cả một năm trời dành dụm.
Anh chưa kịp nói gì thì ông tướng đã quay sang nói với Thanh:
-Cậu cho tôi cái bill.
Nghe như thế thì Thanh ... mừng quýnh lên, đứng dậy liền như một cái lò xo, quên tuốt luôn chuyện tiền đặc cọc đang thương lượng dở dang. Anh chạy vào, hớn hở bảo với vợ, mặt mày tươi rói lên:
-Cho ông tướng cái bill gấp, ông tướng trả tiền.
Mụ vợ lườm chồng một phát, nguýt nhỏ:
-Người ta ăn uống người ta trả tiền là chuyện thường tình, việc chó gì mà phải mừng phải sướng lên như thế?
Thanh cũng không vừa, gắt lại:
-Đàn bà chẳng biết gì cả. Xưa nay ông ấy ăn uống ông ấy có bao giờ trả tiền đâu.
-Tại anh quá nhu nhược, lần này mà không trả tiền thì tôi gọi cảnh sát đấy. Thiếu tướng thiếu tá gì mà ăn không giả tiền là tôi cho vào tù hết.
Thanh trừng mắt nhìn vợ, nạt nhỏ:
-Hôm nay em ăn nói hay quá nhỉ. Cứ đưa bill đây cho tôi, khỏi có nói gì lôi thôi cả.
Thanh cầm cái bill đựng trên một cái đĩa ra, lễ phép cúi đầu để trước mặt ông tướng rồi đứng chờ.
Nhưng ông tướng chừng như không nhìn thấy, cứ tiếp tục nâng ly rượu lên uống. Rồi ông thò tay đẩy cái đĩa vào sâu phía bên trong, gần đám đàn em đang ngồi...
Thanh kiên nhẫn đứng chờ, hy vọng một người nào đó sẽ ra tay nghĩa hiệp.
Nhưng hành động nghĩa hiệp thường chỉ có trong phim Tàu, ít khi nào xảy ra trong một nhà hàng Việt Nam trên đất Mỹ. Bọn đàn em của ông tướng nhìn nhau rồi tảng lờ, làm như chẳng thấy gì, y hệt đàn anh.
Ông tướng quét cặp mắt ... lồi nhìn lướt qua bọn đàn em. Ông biết tỏng đàn em mình, cũng như mình, chẳng có thằng nào có tiền để trả. Chuyện này dễ hiểu bởi vì ở đất Mỹ này, muốn có tiền thì phải làm lụng, còn bọn đàn em của ông, giống như ông, chẳng thằng nào có công ăn việc làm cả, tối ngày chỉ chơi bời đàn đúm, nếu không đi ăn cướp hoặc ăn xin thì làm gì có tiền.
Nhưng ông tướng vốn là một người mưu mẹo, luôn luôn có những sáng kiến khi cần thiết. Ông liền cầm tờ giấy tính tiền lên, liếc nhìn qua rồi hỏi Thanh:
-Cậu muốn tôi cho cậu bao nhiêu tiền tip?
Một câu hỏi thật là bất ngờ. Thanh trả lời:
-Thưa, thiếu tướng đến tiệm em ăn uống là em vui rồi, thiếu tướng muốn cho bao nhiêu cũng được.
-Thế thì tôi cho cậu 300 được không.
Thanh nói ngay:
-Trình thiếu tướng, cái bill chỉ có 500 đô la, thiếu tướng cho như thế là nhiều quá, em chẳng dám.
Ông tướng đưa cái dĩa có cái giấy tính tiền lại cho Thanh, nhăn mặt nói:
-Cậu buôn bán mà ăn nói sao yếu như thế thì chừng nào mới giàu được? Cậu phải đòi cho nhiều thêm chứ. Đây, tôi cho cậu 300 đô la tiền tip, cậu cứ ghi vào chi phí cho tôi, hôm nào nhà băng thanh toán tiền, cậu cứ giữ lấy...
Thanh tái mặt lại, không nói được một lời. Không nói được nhưng bỗng nghe được tiếng quát của mụ vợ từ phía bên trong:
-Đồ khốn nạn...
Thanh giật mình, cùng mọi người quay mặt nhìn vào.
Ở phía sau quầy, vợ Thanh cầm cái gì đó đập xuống quầy nghe đến rầm một tiếng rồi chửi đổng:
-Đồ khốn nạn, quân ăn cướp... Bộ mấy người tưởng tôi lấy gió làm ra rượu ra thịt cho mấy người ăn uống sao...
Thanh hoảng hồn chạy vào trong, vừa chạy vừa nói với vợ:
-Em sao thế...
-Sao cái gì? Bị ăn quịt thì chửi chứ còn sao gì nữa. Đây không phải là lần đầu bọn này đến đây ăn quịt...
Thanh nắm tay vợ kéo tuột vào nhà bếp, anh nói:
-Chuyện đâu còn đó, em bình tĩnh cho anh một chút được không nào?
Vợ Thanh hất tay anh ra, trả lời:
-Bình tĩnh làm sao được. Bọn khốn nạn này ăn quịt vợ chồng mình bao nhiêu lần rồi, làm sao bình tĩnh được.
Thanh nhỏ nhẹ:
-Em phải nhìn xa một chút. Anh đang chuẩn bị cái bữa tiệc gần 7 ngàn đô la cho ông tướng. Khi tiệc xong, mình đòi cũng chưa muộn cơ mà. Hơn nữa, nhà băng họ sẽ đài thọ, mình có thể tăng giá tiền bữa tiệc lên để lấy lại vốn...
Vợ Thanh ứa nước mắt ra:
-7 ngàn đâu chưa thấy, đã thấy mất toi 500 bạc. Anh nghĩ lại xem, kể từ khi thằng thiếu tướng khốn nạn nhà anh về đất New Orleans này, vợ chồng mình bị nó và đàn em nó ăn quịt bao nhiêu lần rồi.
-Anh rất thông cảm với em, anh cũng đứt ruột ra từng khúc đây... Nhưng em phải nhớ, dù sao thì ống cũng là ... là ... cựu phó tổng thống, tiền bạc thiếu gì, nhưng ông ấy tạm thời đang kẹt, mình không nên ép ổng quá...
Vợ Thanh khóc lên rưng rức, không còn kềm chế được:
-Em nói cho anh biết, nếu lần này mà anh không thâu được tiền bữa tiệc là vợ chồng mình chia tay nhau. Em nói thật...
Thanh không nói gì, chỉ cúi gầm mặt và xoay người bước ra ngoài. Anh không ngờ vợ anh có thế nói được với anh một câu tàn nhẫn như thế.
Ở bên ngoài, mọi người đã rút đi hết, chỉ còn mình Nam ngồi cúi đầu ủ rũ bên bãi chiến trường ngổn ngang bát đĩa...
Thanh kéo ghế ngồi xuống gần bạn. Hai ông phi công ngồi im bên nhau như thế một lúc rồi Nam chợt mở miệng hỏi:
-Mày thấy thế nào?
-Tao cũng không biết phải suy nghĩ như thế nào nữa. Vợ tao vừa mới đòi bỏ tao đấy. Tao không ngờ chuyện lại vỡ lớn ra như thế.
-Mẹ, tao là vợ mày thì tao đã bỏ mày từ lâu rồi.
-Tao lạy mày, tao đang muốn tự tử chết đây.
Nam làm một ngụm rượu, hỏi:
-Mày có muốn huỷ bỏ bữa tiệc không?
Thanh suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu:
-Không, vì 3 lý do. Thứ nhất, chỗ này là chỗ làm ăn, thiệp mời đã gởi đi rồi, tao mà bỏ thì mất hết uy tín. Thứ hai, nếu tao mà bỏ thì sẽ mất hết cả chì lẫn chài, chẳng bao giờ lấy lại được số tiền bị ăn quịt. Hơn nữa, dù sao thì mình cũng nên trọng ông tướng một chút. Thứ ba, ông tướng có bảo tụi mình có quyền thâu tiền. Tao nghĩ, trong khi chờ nhà băng hoàn tiền, tao có thế sử dụng số tiền mình thâu quan khách ngày hôm đó.
Nam gật gù cái đầu, vỗ vai bạn:
-On second thought, nếu tao là vợ mày, chưa chắc tao đã bỏ mày đâu.
-Tiên sư bố nhà mày. Chưa biết vợ mày bỏ mày trước hay vợ tao bỏ tao trước...
Tối hôm bữa tiệc, trong quán Saigon Mây Bay, Nam bận đồ vét, đi qua đi lại trên sân khấu, tay cầm mi-crô, bộ điệu rất là trang trọng. Nam có đủ lý do để trở thành... trang trọng. Anh là người MC cho buổi tối hôm đó...
Đúng hơn, cũng chính vì cái “giấc mộng MC” mà anh nhận lời đứng ra tổ chức chương trình cơm thân mật tối hôm nay cho ông tướng.
Nam là một con người tốt nhưng phải cái tật ham nói và mê làm MC. Khi đứng trên sân khấu với cái mi-crô trong tay, anh luôn luôn có cảm tưởng là mình đang đứng trên... thiên đàng. May là tướng tá anh cao ráo, mặt mũi dễ nhìn và ăn nói cũng tạm được nên thường được thiên hạ mời làm MC vào các dịp lễ lạc. Cách đó mấy tháng, trong một buổi nhậu, ông tướng hỏi ai muốn đứng ra tổ chức chương trình cơm thâm mật, anh tình nguyện đứng ra tổ chức. Mình đứng ra tổ chức thì cái chức MC chắc chắn phải lọt vào tay mình, Nam chắc chắn như thế.
Mà nó ... như thế thật. Sau bao nhiêu khó khăn thì cuối cùng cái giấc mộng MC của Nam cũng đạt được. Quan trọng hơn cả, bữa tiệc tối hôm nay không phải là bữa tiệc thường. Bữa tiệc tối hôm nay là bữa tiệc đông nhất thành phố, với sự hiện diện của cựu thiếu tướng Nguyễn Kít và 100 triệu đô la bay lờ lững đâu đây trong gió. Suốt một tháng qua, anh đã chuẩn bị những câu nói, những lời giới thiệu, những câu hài hước mà anh góp nhặt được trên báo, trong các chương trình ca nhạc. Thỉnh thoảng, anh đứng trước gương trong phòng tắm, cầm cái lược của vợ đưa lên miệng tập nói như nói vào micrô. Anh tự pha trò rồi tự cười lấy. Có lúc lại vung tay múa chân như một... thằng khùng. Một lần, vợ anh bất ngờ bước vào nhà tắm, nhìn thấy anh như thế thì lắc đầu ngán ngẩm nhưng không nói gì.
Trong lúc Nam đi lại trên sân khấu mặt mày trang trọng thì Thanh đứng khoanh tay tại cửa, nơi có kê một cái bàn dài để cho quan khách ký tên lưu niệm. Nói là lưu niệm nhưng thật ra, đó là nơi vòi tiền quan khách. Ba nàng “Người đẹp không quân” ngồi thành một hàng, tha thước trong chiếc áo dài xanh da trời. Trên bàn là một cuốn sổ và bên cạnh cuốn sổ là một cái hộp đựng tiền. Một trong ba nàng là vợ Thanh, ngồi ngay chính giữa, cười nói luôn miệng. Ai cho bao nhiêu, Thanh đều ghi nhớ trong lòng.
Thiệp mời 7 giờ tối nhưng mãi đến hơn 8 giờ, phái đoàn của ông tướng mới đến. Bước vào đầu tiên là 3, 4 ông mặt mày nghiêm trang và trang trọng như đi duyệt binh ngày lễ. Ông tướng đi sau, chung với phu nhân mình là bà Trâm. Kế bên bà Trâm là một người mập tròn, nước da đen, trán hói, cặp môi dày và thâm sì như da trâu.
Người ấy là cựu thiếu tá Đặng Tây, đến từ Houston. Tây có viết được mấy bài báo và thơ đăng trên tờ Lý Tưởng ở Houston và nhờ đó, đi đâu Tây cũng luôn luôn tự giới thiệu mình là “Nhà văn Không Quân,” dù không ai có thế hiểu được “nhà văn không quân” nó khác với nhà văn thường ở chỗ nào.
Vợ Thanh nhìn thấy phái đoàn ông tướng thì nhăn mặt lại một chút rồi mới gượng được một nụ cười giả dối và nói:
-Kính mời các anh ký sổ lưu niệm cho chúng em.
Chẳng ai trả lời vì chẳng ai có tiền, cứ tiếp tục đi thẳng. Ông tướng và bà tướng cũng lờ luôn, chẳng dám nhìn mấy người đẹp. Nhà văn không quân liếc nhìn mấy em, khen “Mậy o ăn chi mà đẹp rứa hỉ” rồi đi luôn.
Nam nhìn thấy phái đoàn thì liền lớn tiếng nói như hét vào micrô:
-Kính thưa quý vị, chúng tôi vừa nhìn thấy thiếu tướng Nguyễn Kít và phái đoàn vừa bước vào, xin quý vị cho thiếu tướng và phái đoàn một tràng pháo tay thật lớn, thật to để chào mừng quan khách...
Tiếng vỗ tay vang lên như sấm động. Nam thích quá, nói luôn:
-Kính thưa quý vị, ngoài thiếu tướng và phu nhân, chúng tôi còn nhận thấy sự hiện diện của nhà văn không quân tài hoa nổi tiếng Đặng Tây biệt hiệu Phong Tình, cây viết cột trụ số một của báo Lý Tưởng, nhà thơ vĩ đại nhất thành phố Houston. Xin quý vị cho nhà văn không quân Phong Tình tài hoa bay bướm một tràng pháo tay...
Lại vỗ tay. Chờ một lúc, Nam tiếp:
-Được biết, nhà văn không quân Phong Tình trước kia là một phi công lái tàu bay vận tải tài hoa số một...
Nam vừa nói đến đó thì có một bàn tay níu áo mình. Anh nhìn lại thì nhận ra đó chính là nhà văn không quân Phong Tình đang đứng trước mặt mình. Anh giật mình đánh thót, chưa kịp nói gì thì nhà văn đã khoác tay nói giọng Nghệ An nghe đặc sệt:
-Anh giợi thiệu con khị chi mà loạ rựa hỉ? Anh đưa tôi cại micrô hỉ.
Nam ngạc nhiên quá đổi, không biết phải phản ứng như thế nào. Nhà văn lại nói:
-Anh đưa Micrô đi hỉ, ông tướng nọi tôi làm MC tội nay. Đựng buộn hỉ.
Mẹ, như thế thì còn gì là giấc mộng MC của mình nữa. Nam cảm thấy trời đất quay cuồng, muốn té xỉu ngay trên sân khấu. Lại có một người nữa trong phái đoàn ông tướng tiến tới gần, dục:
-Đưa micrô cho ông Tây đi. Lệnh của thiếu tướng.
Nam muốn ứa nước mắt, đưa cái micrô cho nhà văn không quân rồi líu ríu bước xuống, tai còn nghe được người MC mới tự giới thiệu mình:
-Kịnh thưa quỵ vị, tôi vâng lệnh thiệu tượng lạm MC cho bựa tiệc tội nay...
Tây nói lung tung một hồi, toàn là những câu pha trò rẻ tiền và đôi khi lại còn tục tỉu nữa, nhưng mọi người lại cười vang...
Nam líu ríu đi về phía cuối phòng, mắc cỡ quá, chỉ muốn độn thổ cho xong. Lúc nãy mặt anh trang trọng bao nhiêu thì bây giờ xìu lại và đau khổ bấy nhiêu. Ra tới cửa, anh toan mở cửa bước ra bỏ về thì Thanh kéo anh lại, hỏi:
-Tao tưởng mày làm MC mà, sao lại để cho thằng khùng đó lên?
Nam nghiến răng, chửi thề:
-Đeo mẹ thằng nhà văn chó đẻ. Nó dành chức... MC của tao. Nó mà nhà văn cái đếch gì, ăn nói nham nhở nghe không chịu được.
Thanh phẫn nộ dùm cho bạn:
-Cũng tại mày tâng tốc nó quá đáng... Tao biết thằng này, văn chương mẹ gì nó. Nhưng tại sao mày đưa micrô cho nó?
Nam lắc đầu, thở dài:
-Nó bảo ông tướng ra lệnh cho nó. Biết thế thì tao đếch thèm giới thiệu thằng chó đẻ.
-Thôi ngồi xuống đây uống với tao một ly cho hạ hỏa đi.
Nam ngồi xuống, nhận ly rượu từ tay Thanh. Đang chán đời, anh làm luôn một lúc 4 ly đầy rồi ợ lên một phát thật lớn, cảm thấy nhẹ nhỏm trong lòng đôi chút. Nhìn thấy vợ Thanh đang đếm tiền, Nam liền hỏi:
-Tối nay thâu được bao nhiêu hả chị?
-Gần 6 ngàn đấy anh. Cũng đỡ. Mấy hôm nay vợ chồng chúng tôi lo quá.
Thanh ngồi gần đó cũng nói thêm vào:
-Thật là phải cám ơn trời phật... Nói ra thì xấu hổ nhưng mình mở nhà hàng bán thức ăn mà cứ như là đi ăn xin ăn mày...
Nam nói:
-Nói thật với hai ông bà là tôi cũng lo giùm cho hai người... Bọn nhà băng Mỹ chúng nó làm việc lâu lắm, mà chưa chắc là đã có tiền.
Vợ Thanh nói:
-Đồng tiền nắm trước là đồng tiền khôn. Cứ giữ nó đây cái đã, hôm nào nhà băng họ trả tiền thì mình trả lại cho ông tướng. Mình chẳng muốn giật ai nhưng cũng chẳng muốn ai giật mình.
Bên trong, có tiếng giới thiệu ông tướng lên nói chuyện bằng một giọng Nghệ An đặc sệt và những lời tâng bốc nịnh bợ lố lăng quá đáng. Lại vỗ tay như sấm động rồi tiếng nói của ông tướng bay ra:
-Anh em cựu quân nhân và công chức nghe tôi nói, cổ nhân ta có câu: “Nhất phá sơn lâm nhì đâm hà bá”, tôi lập lại là đâm hà bá chứ không phải đâm... đàn bà đâu nhá. Đâm hà bá thì ra tiền còn đâm ... đàn bà thì ... sưóng nhưng hao tiền tốn của lắm, hì hì...
Mọi người nhao nhao lên cười sặc sụa, cười đến muốn té xuống đất. Thanh cũng cười nhưng mụ vợ nhăn mặt lại, thò tay véo vào đùi chồng một phát:
-Ăn nói nham nhở như thế mà anh cũng cười được à?
Ông tướng tiếp:
-Tại sao lại phải đâm hà bá? Đúng thế, chúng ta phải đâm ... chết mẹ hà bá bởi vì...
Tướng Kít nói một thôi dài, vừa nói vừa pha trò. Đại khái, ông cho biết, ông sẽ mở một vựa cá ngay tại thành phố này. Vựa cá của ông sẽ là vựa mua bán tôm cá lớn nhất tiểu bang Lousiana, chưa hề có trong lịch sử, với những máy móc tối tân nhất thế giới và sẽ tạo công ăn việc làm cho khoảng 500 người địa phương. Dĩ nhiên, ông sẽ mướn toàn người Việt Nam, cựu phi công càng tốt. Vựa cá của ông sẽ mua tôm cá của “bọn ngư phủ” địa phương và Việt Nam giá 1 đô la một pound, bán ra 5 đô la một pound, lời sơ sơ 4 đô la một pound, sau khi trừ chi phí, còn lời 3 đô la một pound. Ông dự trù, vựa cá của ông mỗi ngày sẽ bán khoảng vài trăm ngàn pound, tiền vô cứ gọi là đếm không hết, chắc phải mướn security của Mỹ để canh tủ tiền... Nhà băng First Jefferson National Bank sẽ cho ông mượn khoảng 80 triệu đô la, và ông cần thêm 20 triệu đô la để lo mấy việc lặt vặt. Ông kêu gọi anh em cựu quân nhân mua cổ phần vựa cá.
Ông kết luận:
-Ai muốn ... chơi hà bà thì bỏ tiền ra mua cổ phần vựa cá của tôi. Tiền anh em bỏ vào càng nhiều thì sẽ lấy về càng nhiều, sau này con cháu sẽ nhà cao cửa rộng, mặc sức tung hoành...
Ông tướng vừa nói tới đó thì bà Trâm, phu nhân ông tướng xuất hiện, tiến ngay tới chỗ vợ chồng Thanh và Nam đang ngồi.
Phải thành thực mà nói, bà Trâm là một người đàn bà đẹp hơn mức trung bình. Chẳng những đẹp, trời còn cho bà cái tướng quý phái, lịch sự. Thêm vào đó, bà lại biết cách diện đồ, ăn bận khéo léo, luôn luôn theo đúng thời trang. Vì những lý do đó, mọi người, từ đàn bà đến đàn ông, ai cũng thích gần gũi bà. Đàn bà thích gần gũi để học những cái hay, cách trang điểm, cách diện quẩn áo, còn đàn ông thì để ... dê bà. Thiên hạ đồn, bà là một người rất đa tình. Và đối với đàn ông, hễ đàn bà càng đa tình thì ... càng tốt, miễn là người đó không phải là vợ mình.
Thanh và Nam cũng không tránh khỏi định lệ... đàn ông quái quỷ này cho nên khi nhìn thấy bà phu nhân bước tới, hai ông cựu phi công liền đứng lên, cười tươi như hoa, đon đã mời bà ngồi. Bà Trâm cũng cười tươi như hoa, ngồi xuống, ghép chân vào nhau, để lộ một phần đùi hở hang và đẩy đà và trắng phau, thơm như múi mít.
Cả Thanh và Nam cùng nuốt nước bọt một phát khi nhìn thấy cặp đùi...
Ngay cả vợ Thanh, khó tánh như thế mà khi thấy bà ngồi xuống nơi bàn mình cũng cảm thấy hãnh diện vô cùng. Trong tiệm này có bao nhiêu bàn sao bà không ngồi, lại chọn bàn mình để ngồi.
Thanh nhanh nhẩu nói, cặp mắt dán chặt vào cái phần vú hở của bà phu nhân:
-Thưa cô, ý quên thưa phu nhân bà tướng, ý quên... xin lỗi, phu nhân ông tướng, dùng gì để tôi đi lấy ạ.
Vợ Thanh muốn tát cho chồng một phát nhưng phải nhịn.
Bà Trâm liếc mắt đưa tình với Thanh, làm như ngầm nói rằng “tôi biết anh đang nhìn vú tôi đấy nhá, đồ khỉ” rồi ỏn ẻn nói:
-Gì cũng được nhưng xin anh cho ly nước cam ạ.
Thanh cười thật tươi, quay sang bảo cô bồi đứng gần đó:
-Em cho bà tướng ly nước cam vắt nhé, làm cho kỹ, cho đẹp, cho khéo nhé.
Bà Trâm quay sang vợ Thanh, thân mật nói:
-Nhà hàng của em đẹp quá, chẳng thua gì mấy nhà hàng bên Cali.
Vợ Thanh cười:
-Chị quá khen, bọn em cũng chỉ cố gắng để sống qua ngày thôi chị ạ...
Bà Trâm vỗ vào ... đùi vợ Thanh, duyên dáng và thân mật nói:
-Sống qua ngày mà được như em thì chị cũng muốn sống lắm...
Vợ Thanh cười, cặp mắt híp lại:
-Chị lại quá khen em rồi...
Đột nhiên, bà Trâm quay sang nói với Nam:
-Anh, anh làm MC hay quá, ai cũng phục lăn...
Nam lúc ấy đã uống khoảng 6, 7 ly cổ nhắc rồi nên tâm hồn đang lâng lâng sung sướng... Cũng gìống như Thanh, anh đang nhìn vào cặp vú của bà Trâm mà tưởng tượng mông lông, bỗng nghe mình được chiếu cố thì giật nẩy minh lên, ly rượu trong tay xém tí nữa thì đổ cả ra ngoài. Anh ấp úng nói:
-Thưa... thưa em... không, thưa bà, bà quá khen ạ. Tí tài vặt ấy mà...
Bà Trâm lại liếc mắt cười tình:
-Tôi cũng chỉ mong có tí tài vặt như anh mà không có được. Này, hôm nào đám cưới con gái tôi, tôi phải mua vé máy bay cho anh qua Ca-li làm MC cho cháu nhé? Tôi đặc cọc anh trước đấy, không được từ chối nhé...
Nam sung sướng đến độ muốn ... quỳ ngay xuống đất mà cám ơn người đẹp. Giấc mộng vàng MC tưởng đã tiêu tùng, nào ngờ lại có mòi phát triển. Làm MC cho con gái bà tướng, chuyện khó tin nhưng có thật. Anh nói, giọng run run vì cảm động:
-Cám ơn phu nhân đã tin cậy. Nếu phu nhân cần thì bất cứ lúc nào, tôi sẽ bay qua Cali một chuyến để làm MC cho cháu.
Nam chưa nói hết câu thì bà Trâm đã quay sang nhìn vợ Thanh:
-Cái vòng cổ em đeo coi lịch sự và đẹp quá, lại trang nhả nữa. Vợ ông chủ nhà hàng có khác. Em mua ở đâu thế em?
Bây giờ thì tới phiên vợ Thanh sung sướng đến rêm người. Thế là 2 người đàn bà châu đầu vào nhau nói về chuyện trang sức...
Ly nước cam vắt được mang lên, để trước mặt bà Trâm. Thanh ngồi xuống ngay trước mặt bà, ngắm vợ mình và bà Trâm nói chuyện một cách thích thú. Anh cảm thấy hãnh diện vô cùng. Coi 2 người thật là xứng đôi, giống như 2 chị em. Ai cũng xinh cả, đúng là “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.” Một lúc nào đó, anh chen vào, tay đẩy cái đĩă thức ăn, ngọt ngào nói:
-Bà phu nhân dùng cơm nhé. Ngon lắm đấy, đầu bếp Chợ Lớn chính hiệu nấu đấy.
Lại một cú liếc mắt chết người rồi bà Trâm lắc đầu:
-Thôi, cám ơn anh, lát nữa tôi còn phải ghé qua đặc cọc tiền để mua mấy chiếc xe vận tải.
Tối thứ bảy mà ai lại nhận tiền đặc cọc mua xe thì Thanh không nghĩ ra, nhưng anh có cần gì để nghĩ nữa. Cái đáng nghĩ là nghĩ đến cặp vú cặp đùi bà Trâm kia kìa. Người đâu mà có cú liếc mắt đẹp thế, bà ấy cứ liếc mình như thế này thì chắc mình đứng tim mà chết. Rượu đã ngà ngà say, Thanh lòng mình bỗng trở nên thổn thức.
Nói chuyện một lúc, bà Trâm đột ngột hỏi vợ Thanh:
-Tối nay thâu tiền có khá không em.
Bình thường mà nghe hỏi một câu như thế thì vợ Thanh sẽ bắt đầu suy nghĩ liền, nhưng tối hôm đó, không hiểu sao, chị lại đâm ra thân mật và dễ dãi, vui vẻ trả lời:
-Được hơn 6 ngàn đấy chị ơi. Vợ chồng em lo sốt cả vó suốt mấy tuần nay..
Sau câu hỏi, bà Trâm lại đột ngột chuyển sang đề tài thời trang. Càng nói thì tình chị em càng trở nên thắm thiết, hợp tình hợp ý. Một lúc nào đó, bà Trâm lại nói:
-Chị cứ tiếc sao mãi đến bây giờ mới được gặp em, phải chị em mình quen nhau sớm hơn thì tốt quá. Em xinh quá, chị quý em quá...
Vợ Thanh híp mắt lại, sung sướng không nói nên lời. Nụ cười chưa tắt thì bà Trâm đã cho nổ ngay một quả bom CBU:
-Này em, chị đang cần 10 ngàn đô la để đặc cọc tiền mua xe vận tải cho anh Kít, em cho chị “giật nóng” của em 6 ngàn nhé. Chị có check 75 ngàn đô la đây nhưng khuya quá rồi không đi đổi kịp, ngày mai chị dậy sớm đi nhà băng cash tiền chị đưa ngay cho em...
Vợ Thanh giật thót mình, không biết phải trả lời và phản ứng như thế nào. Không phải chỉ có mình vợ Thanh, mà hai người đàn ông ngồi chung bàn cũng giật mình đến thót. Nam đang lim dìm mơ màng tưởng tượng đến cảnh đang làm MC cho con gái bà Trâm, liền mở bừng mắt. Dù đã ngà ngà say nhưng câu nói ngày nào của ông kế toán bạn Nam vẫn còn văng vẳng bên tai anh... Phần Thanh, tửu lượng của anh yếu hơn Nam nên anh chỉ mơ hồ biết có một chuyện nguy hiểm sắp sữa xảy ra nhưng không biết là chuyện gì.
Vợ Thanh ú ớ:
-Thưa chị, em... em...
Bà Trâm tiếp liền:
-Xe vận tải dùng để chở tôm ấy mà em. Bọn chị mua một lần 3 chiếc, nhà băng ứng trước tiền cơ mà. Đây này, để chị cho em xem cái ngân phiếu của nhà băng First Jefferson National Bank trong bóp chị đây.
Bà cúi người xuống rồi bỗng nhớ ra là mình không đem bóp theo, bà lắc đầu, đau khổ, tặng cho Thanh một cú liếc mắt chết người nữa.
-Rõ là hư thân, chị lại bỏ quên bóp ở bàn bên kia...
Vợ Thanh ngồi chết trân như một pho tượng gỗ, không nói được mà cũng không có được một phản ứng gì.
Bà Trâm lại quay sang hỏi Thanh, giộng thêm một cú liếc mắt chết người nhưng bây giờ lại có thêm phần đau khổ nữa:
-Anh Thanh... anh có biết sáng mai mấy giờ nhà băng mở cửa không? Tôi có cái check 75 ngàn đô la.
Bà Trâm kéo dài tiếng “Thanh” nghe như “Th a a a a nh” thật là ngọt ngào, quyến rũ.
Thanh ... của bà trả lời ngay, giọng cũng tình tự không kém:
-10 giờ... 10 giờ... thưa..
Thanh ngừng ở chữ “thưa” vì không biết nói thưa em hay thưa bà. Bà Trâm lại tung chưởng:
-Thế thì anh có cho tôi giật nóng 6 ngàn đến ngày mai không? Đừng có ăn hiếp tôi đấy nhá, tôi không chịu đâu, bắt thường đấy...
Miệng bà nói, mắt bà lại liếc, cặp môi bà cong lên một cách mời mọc, ngực hạ thấp xuống để biểu diễn bộ vú coi dâm không chịu được.
Dĩ nhiên là một người như Thanh thì đời nào lại đi ăn hiếp đàn bà, nhất lại là một người đàn bà ... có cặp vú đẹp như thế kia và lại là phu nhân của ông tướng, Anh nói ngay không cần phải suy nghĩ, đắn đo:
-Được chứ sao không? Em, em đưa tiền cho chị Trâm đi. Mai mình lấy lại cũng còn kịp, có đem về cũng không kịp bỏ vào nhà băng tối nay.
Nghe như thế nhưng vợ Thanh cũng không có phản ứng, hai tay tự dưng lại đưa lên để trên hộp tiền trước mặt.
Thanh liền hất tay vợ ra, thò tay nắm mớ tiền lẫn check nằm trong hộp rồi đưa cho bà Trâm:
-Đây, bà phu nhân cầm lấy, mai đưa lại cho tôi...
Bà Trâm cầm gọn gói bạc, tặng cho anh một cú liếc mắt nữa. Thanh cảm thấy lâng lâng sung sướng, miệng cười cười, dở trò tán tỉnh:
-Như thế là bà phu nhân không được nói tôi ăn hiếp bà đấy nhé.. Đẹp như bà, thương không hết, ai lại đi ăn hiếp...hì hì...
Vợ Thanh liền đứng lên, bỏ vào cầu tiêu, nước mắt chảy chan hoà xuống mặt...
Nam dù say rượu nhưng cũng ngạc nhiên nhìn sững bạn, không nói được gì.
Sáng hôm sau, mãi đến 12 giờ trưa Thanh mới tỉnh rượu, thức giấc. Anh ngạc nhiên khi thấy nhà cửa vắng hoe. Gọi mãi không thấy ai trả lời, Thanh bước xuống giường và nhìn thấy một tờ giấy để trên bàn. Anh hốt hoảng cầm lên, tờ giấy do vợ Thanh để lại:
“Anh Thanh,
Vợ chồng ta đến đây là chấm dứt. Tôi lái xe chở hai con về Cali sống với bố mẹ.
Đừng gọi tôi vì tôi sẽ không trả lời. Luật sư của tôi sẽ liên lạc với anh sau.
Chúc anh may mắn.”
Thanh ôm mặt khóc lên rưng rức. Rồi anh lại nhớ đến số tiền 6 ngàn tối hôm qua, mặt mày tái mét lại. Vấn đề bây giờ là không biết bà phu nhân ông tướng ở đâu để đòi tiền.
Thanh liền nghĩ tới cái phao cuối cùng của mình là Nam. Anh gọi cho Nam, vừa khóc vừa kể lại chuyện xảy ra.
Nửa tiếng đồng hồ sau, Nam gọi lại, cho biết là hai vợ chồng ông tướng đã bay đi sáng nay rồi. Không ai biết đi đâu và khi nào thì trở về...
Nam thấy bạn như vậy thì động lòng, cảm thấy mình phần nào có trách nhiệm trong việc này, liền lấy hết số tiền dành dụm bấy lâu trong trương mục tiết kiệm, khoảng gần 2 ngàn, đưa cho Thanh. Vợ Nam phản đối dữ dội nhưng anh chẳng nghe.
Thế là gia đình Nam lại có chuyện lục đục. Mới đầu thì nhỏ nhưng cứ lớn lên dần. Vài tuần sau đó, vợ Nam cũng bắt chước vợ Thanh, lái xe chở ba con lên DC, ở với bố mẹ.
Giòng đời tiếp tục trôi và vài tháng sau đó, tại thành phố New Orleans, vào những ngày cuối tuần, có hai ông phi công thường hay rủ nhau đi... câu cá ở bờ sông Mississipi. Họ ngồi lặng bên nhau hàng giờ, nhìn mông lung xuống nước, lên trời, nhiều khi cá cắn câu cũng không buồn kéo lên.
Hình như, họ đi câu với nhau là để giải buồn, để an ủi nhau và kể lại chuyện đời xưa chứ không phải để câu cá...




Trường Sơn Lê xuân Nhị

Con Mén

Con Mén

         Trong khai sanh nó tên là Loan. Ở nhà gọi nó là con Mén, vì hồi sanh nó ra nó chỉ cân được có hai kí lô tư. Bà nội nó bồng nó trên tay, nhỏ xíu như một con mèo. Bà cười văng cốt trầu : "Đu họ nó ! Thứ gì mà như con chí mén !" Từ đó, gọi nó là con Mén luôn.
         Nó bú sữa mẹ, nhưng vì nhà nghèo nên má nó không đủ sữa, dặm thêm cho nó bằng nước cháo, cho nên nó không mụ mẫm như phần đông các trẻ nít khác. Nó cứ đèo đèo, lớn chậm và ốm tong ốm teo.
         Bà nội nó cưng nó lắm. Bởi vì ba má nó chỉ sanh có con trai, một dọc ba đứa, phá phách đánh lộn tối ngày. Bà nội nó thèm có một đứa cháu gái, nhẹ nhàng dễ sai dễ bảo hơn. Bà thường nói : "Có đứa cháu gái để tao có đi đâu nó theo nó xách giỏ trầu". Một ước mơ rất tầm thường nói lên nét bình dị mộc mạc của tâm hồn các bà mẹ quê. Giống như mái nhà tranh chỉ cần có bụi chuối sau hè, có ao bèo trước ngõ… Giống như con rạch nhỏ, chỉ cần đều đặn có nước lớn nước ròng…
         Con Mén có thân hình óm o xấu xí nhưng lại có đôi mắt sáng, linh động, với cái miệng nhỏ chu-chu cũng dễ thương. Bà nội nó nói : "Cái ngữ này lớn lên rồi phải biết. Nó hỗn dàng trời !". Nói như vậy chớ bà ưa nhìn nó ngủ sau khi bú, nhả vú ra rồi mà miệng vẫn còn nút nút.
         Quê con Mén ở miệt Hậu giang một làng nhỏ nằm xa tỉnh lỵ, xẻ đôi bởi một con kinh đào. Vùng này chưa có đường xe chạy, nhưng có nhiều sông rạch nên thiên hạ đi lại bằng ghe to xuồng nhỏ. Hoặc đi bộ dọc theo bờ nước hay băng ngang đồng vào mùa ruộng khô. Xa xa, có những chiếc cầu gỗ bắc ngang kinh rạch, nối xóm này qua xóm nọ. Cầu gỗ cao lêu-nghêu, chân dài cắm sâu vào lòng nước như sợ nước lên làm ướt thân cầu. Người ta qua lại không cần lan can.
         Xóm con Mén tên là xóm Cầu Ngang, một cái tên nghe rất thật thà, làm như trên đời này còn có những cái cầu dọc vậy ! Xóm nhỏ đó cũng có chợ nhà lồng lợp tôn đơn-sơ. Vây quanh chợ là quán cà phê, tiệm chạp-phô, tạp hóa, hàng vải… và một tiệm sách, gọi là tiệm sách nhưng chỉ chuyên cho thuê tiểu thuyết, truyện tàu.
         Con Mén sanh ra ở đó. Khi nó biết đi biết chạy, bà nội nó lúc nào cũng kè một bên, sợ nó té sông. Vậy mà chẳng mấy lâu sau, nó biết lội hồi nào bà nó cũng không hay, nó học lội với ai bà nó cũng không biết. Mãi đến một hôm, trời nóng bức, con Mén nhảy ùm xuống kinh làm bà nội nó la làng chói-lói. Đến khi nhìn lại thấy nó lội như rái, bà mừng chảy nước mắt. Lòng bà vui lắm nhưng bà cũng chưởi đổng : "Mồ tổ cha mày !". Từ đó, con Mén đi đâu một mình bà cũng yên tâm. Bà nói : "Nó giống hệt thằng cha nó hồi nhỏ".
         Lớn lên một chút, con Mén lúc nào cũng ở trần, đi chân đất, chỉ mặc có cái quần xà-lỏn ka ki. Nó vẫn ốm tong ốm teo, nhưng không thấy nó bịnh bao giờ. Nó chơi với lũ trẻ hàng xóm, chơi trò con trai như con trai. Vậy mà bà nội nó vẫn ưa nó hơn là ba thằng anh của nó, bởi vì đêm nào nó cũng chui vào ngủ với bà. Bà thích vuốt tóc cho nó ngủ và thích nghe mùi thơm hơi thở của con Mén, như ngày xưa, hồi còn trẻ, bà thích nghe mùi thơm của lúa chín, gió ruộng đưa thoang thoảng vào nhà về đêm…  
         Má con Mén mua đầu chợ bán cuối chợ. Kiếm đủ nuôi mấy miệng ăn. Nghèo nhưng không đói. Ba nó trốn lính một dạo, nhưng rồi cũng bị bắt. Đi quân dịch, làm binh nhì, rồi đi luôn không biết chừng nào giải-ngũ !
         Ba nó đóng ở đâu miệt Sài-Gòn. Lâu lâu về phép, ở nhà được vài hôm. Những hôm  đó, con Mén khoái lắm, bởi vì ba nó cũng cưng nó như bà nội nó vậy. Sáng nào, ba nó cũng cõng nó ra tiệm cà-phê. Nó ngồi trên ghế đẩu cạnh ba nó, đôi mắt chỉ cao hơn mặt bàn một chút. Người lớn hay vò đầu nó, làm rối bồng mái tóc bom-bê. Lúc nào nó cũng được ba nó gọi riêng cho một tách sữa nhỏ. Sợ sữa nóng, ba nó thường sớt ra dĩa cho mau nguội. Nó kê miệng vào thành dĩa, hớp từng hớp nhỏ. Hai bên mép, sữa đóng thành hai đường trắng hếu, nhưng mắt nó ngời lên sung sướng. Những lúc đó, con Mén đong đưa hai chân như người ta đuổi ruồi…
         Rồi một hôm, Việt Cộng về xóm Cầu Ngang, bắn phá tơi bời suốt một đêm, sáng bữa sau rút đi mất. Thiên hạ bắt đầu bàn tán. Trời vừa sụp tối đã đóng cửa cài then. Đêm đêm nằm ngủ phập phồng. Sáng ra nhìn nhau lơ-láo. Nét thanh bình xóm nhỏ làng quê mất dạng lần lần. Người ta bắt đầu tản cư…   
         Ba nó về, đưa mẹ con nó lên Sài-Gòn. Bà nội nó ở lại. Bà nói : "Tao già rồi, đi đâu chi ? Tụi bây lo cho sắp nhỏ đi, đừng lo cho tao". Bà nói cứng như vậy chớ lòng bà đau như dao cắt. Bà biết : bầy vịt nhỏ và mấy gốc mận gốc xoài không giúp được bà thường xuyên lên thăm bầy cháu. Nhứt là con Mén, rứt nó đi y như là cắt đi một núm ruột của bà. Hôm đó, bà nội con Mén ăn trầu nhiều hơn mọi ngày, hết miếng này là têm ngay miếng nọ, mắt nhìn mãi bờ kinh, không nói. Đến khi đưa bầy cháu xuống ghe, bà ôm con Mén vào lòng, hôn nó mà bà khóc ngất. Bà dúi vào tay nó tờ giấy năm chục đồng xếp nhỏ, nói trong nước mắt : "Nội cho con lên trển mua bánh ăn". Nó nghe nồng lên mùi cốt trầu, mùi bà nội nó, cái mùi mà nó đã quen thở đêm đêm khi gối đầu lên tay bà để đi vào giấc ngủ. Nó ôm bà mà khóc như mưa…
         Ghe đã đi xa, ghe máy nên đi nhanh hơn ghe chèo. Bà nội con Mén còn đứng ở bờ kinh, mắt rõi theo ghe mà nghe như người bà bị tê dại. Kinh đào dài tun hút. Ghe đã mất dạng từ lâu mà bà vẫn nhìn mãi về phía đầu kinh. Tuốt ở đầu kinh - xa lắm  - có một lằn dài gạch ngang, người ta gọi là chân trời…
 
--oOo--
 
         Ba con Mén hốt hụi vay nợ mua một căn nhà nhỏ vách ván lợp tôn ở xóm Bộng, bên kia sông Khánh Hội. Gọi là xóm Bộng bởi vì ở đó có cái ống cống thật to để nước ruộng vào ra khi nước lớn nước ròng. Dân nghèo tứ xứ tản cư về đây, ngày một nhiều, nhà nho nhỏ cất dọc cất ngang, mọc lên như nấm. Cứ có chỗ trống là cất chen vào. Ngoài mặt lộ hết đất, họ cất tràn ra ruộng. Nhà này tựa vào nhà kia như sợ ngã, sát nhau đến độ không còn chỗ để làm đường đi ! Muốn vào xóm, có đoạn đi trên bờ đê – gọi là đê nhưng là bờ ruộng cũ bây giờ người ta bồi rộng ra thêm một chút – có đoạn đi trên mấy tấm ván gập gềnh bắc ngang đường nước, có đoạn phải bước hẳn vào nhà người ta để đi qua. Nhà lụp-xụp thấp lè-tè nên cứ phải cúi lom-khom, có khi bước cạnh vợ chồng người ta đang nằm ngủ trong nhà, dưới đất !
         Mái nhà con Mén thuộc vào hạng cũng khá cao trong xóm. Ba nó phải đưa tay thẳng lên mới đụng. Nhà nó được lót gạch bông phần nền đất, còn nửa phần sau là đóng cừ lót ván. Ông chủ cũ nói với ba con Mén : "Làm tới đó tôi hết tiền. Thôi thì tạm một khúc nhà sàn, chừng nào cậu muốn, cậu đắp nền thêm". Rồi ông đứng trên sàn nhún-nhún : "Ván còn tốt, còn chịu được năm ba mùa lận". Năm ba mùa đây có nghĩa là năm ba mùa nước ngập. Những hôm mưa nhiều, nước không chảy kịp ra sông, nước lên lé-đé mặt sàn. Có nơi nước tràn vào nhà, ngập mấy hôm mới rút. Những hôm đó, người ta treo hết đồ lên nóc, treo vài cái võng để ngủ tòn ten giữa vời…
         Nhà con Mén không có đồ đạc gì nhiều : một vài cái rương chất trong một góc, một cái tủ nhỏ kê sát vào vách, quần áo máng trên mấy cây đinh đóng trên vách đối diện, bếp dầu hôi sóng chén dồn vào một góc phía sau. Cái gì cũng tấn vào vách vào góc để chừa khoảng trống giữa nhà dùng làm chỗ ăn chỗ ngủ. Phía sau nhà là sàn nước lộ thiên. Nước chứa trong hai thùng phi nhà binh màu cứt ngựa mà ba con Mén xin từ đơn vị đem về. Tắm rửa giặt giũ ở đó, và về đêm, phóng uế cũng ở đó luôn.
         Khu này không có điện nước. Cho nên nhà nào cũng có vài cây đèn dầu hôi và đôi ba thùng phi. Mỗi ngày, có xe xi-tẹt đến bán nước- người ta gọi là "đổi nước" – Họ kéo ống cao-su nhỏ bằng cườm tay, chắp nối thật nhiều khúc mới đủ dài để vào sâu trong xóm. Tiếng máy bơm của họ kêu thật lớn, xành xạch xành xạch điếc tai. Nhưng cũng nhờ nó mà người trong xóm biết là xi-tẹt nước đến rồi ! Xi-tẹt nước chỉ  "làm ăn" trong mùa nắng thôi…
         Về đây, con Mén ngủ với ba nó, ngủ trên võng. Má nó và ba thằng con trai ngủ dưới gạch. Đêm đầu, con Mén không chịu ngủ, cứ đòi về bà nội. Nó ngồi bẹp dưới đất, khóc ư-ử. Lâu lâu gọi một cách thảm não : "Bà nội ơi !" Tiếng "ơi" của nó kéo dài ra, làm má nó cũng nhớ nhà nhớ đất, nước mắt chảy quanh. Ba nó thổi tắt đèn, vói tay ôm nó vào lòng, nằm trên võng đong đưa dỗ : "Nín đi con, nín. Ngủ với ba cũng giống như ngủ với bà nội chớ gì. Rồi mai mốt bà nội con lên ở với con nghen". Tiếng "nghen" bỗng nghẹn ngang nơi cổ, ba nó kềm lắm mới khỏi phải nấc lên. Tuy nhiên, trong bóng đêm, nước mắt cũng âm thầm chảy dài trên má…
 
--oOo--
 
         Mỗi ngày, ba con Mén đi làm trong đơn vị, sáng đi chiều về, đi bằng xe buýt. Má nó chưa quen nước quen cái nên ở nhà vá áo nấu cơm. Anh em tụi nó lân la làm quen lũ nhỏ trong xóm. Dù ở giữa lòng thành phố, trò chơi của tụi nó vẫn mộc-mạc thô-sơ như thuở còn dưới ruộng : bắn bi, búng dây thun, lấy nút khoén làm mề-đai hay in cát giả làm bánh.
         Ít lâu sau, má con Mén được người hàng xóm giới thiệu vào làm phu trong nhà máy ve chai bên kia sông. Mới đầu còn bỡ ngỡ, làm sai làm trật. Chiều nào về, má nó cũng buồn thiu, ra ngồi trên sàn nước, nhìn khoảng trời mở ngỏ trên cao, lâu lâu thở dài. Nhưng lần hồi má nó cũng quen tay, thêm tánh siêng-năng cần-cù, nên mấy thầy giám thị cũng thương tình nâng đỡ. Nhờ vậy má nó mới vững lòng tin ở ngày mai. Ngày mai, đối với ba má con Mén, thật là giản dị : "Chừng yên, mình về dưới bà nội tụi nhỏ, lảnh mấy công ruộng mà làm cũng dư sống". Cái hình ảnh của ngày mai đó, người tản cư nào cũng nghĩ giống như nhau : yên rồi về quê làm lại cuộc đời. Họ đã rời làng bỏ xóm ra đi, đi để còn sống mà trở về, nhưng họ vẫn mang theo trong lòng gốc dừa cây cau chậu kiểng. Họ không bám được đất, nhưng họ không để mất được gốc. Chính tình cảm quê hương sâu đậm đó đã giúp họ can-đảm nhận chịu cuộc sống tạm bợ ngày hôm nay. Ngày qua ngày, họ mớm niềm tin bằng hy vọng. Và ngày qua ngày họ nuôi hy vọng bằng niềm tin ! Cứ lẩn-quẩn loanh-quanh như vậy cho đến một ngày nào đó - chưa phải là cái ngày mai chờ đợi - người già tắt thở với niềm tin và trẻ con lớn lên không biết phải hy vọng ở cái gì… Chỉ còn thế hệ của ba má con Mén là lây lất sống trong lòng đô thị, ví mình như cây chùm gởi, còn biết thế nào là niềm đau quê hương nhưng vẫn mỏi mòn chờ đợi : "Ngày mai… Ngày mai, rồi trời sẽ lại sáng".
 
--oOo--
 
         Mấy anh con Mén đều được đi học, chỉ có nó là chưa. Có lẽ tại vì nó gầy còm nhỏ thó nên ba má nó quên tuổi thật của nó đi, cứ nghĩ : "Sang năm là đến phiên con Mén". Nhưng rồi nó vẫn còi-còi như vậy hoài, có lẽ còn lâu mới đi học !
         Buổi sáng, ăn cháo xong là cả nhà đi hết. Con Mén ở lại coi nhà. Tiếng là coi nhà chớ lúc nào cũng thấy nó la-cà ở hàng xóm, làm bánh giả, búng dây thun. Nó búng dây thun giỏi nhứt xóm. Đã khéo tay lại biết tính toán nên ngày nào nó cũng ăn của trẻ con cùng lứa rất nhiều dây thun. Về nhà, nó cho vào túi ni-long cất kỹ, bởi vì vòng dây thun là "tiền" của tụi nhỏ. Năm vòng thun "mua" được cái nút khoén lô-canh (la-ve, nước ngọt) mười vòng thun một nút khoén ngoại quốc (các loại chai nhập cảng) và phải tới hai chục vòng thun mới có được lon cô-ca không, thật hấp dẫn với nền đỏ tươi in chữ trắng… Vòng thun có giá trị như vậy cho nên đứa nào cũng ráng kiếm cho thật nhiều. Rồi cũng giấu kỹ. Rồi cũng đếm tới đếm lui, y như người lớn đếm tiền thật.
         Một buổi mai, con Mén mang bọc dây thun ra đầu ngõ tìm bạn. Ở đây, có một quán cà-phê hủ tiếu và vài hàng quà bánh điểm tâm. Một bà già bán xôi thấy bọc ni-long dây thun con Mén nhét tòn ten ở lưng quần, bèn hỏi :"Dây thun đâu nhiều vậy cháu ?". Nó trả lời là dây thun của nó. Bà ta cười hiền hòa : "Vậy hà. Chớ cháu có bán dây thun hôn, bà mua cho. Để cột mấy bọc xôi ý mà". Ở đây, mấy người đi làm sớm không có thì giờ ăn sáng, ghé qua mua gói xôi mang theo để lúc nào tiện thì mở ra ăn. Xôi vẫn được gói bằng lá chuối, nhưng sau đó được cho vào bọc ni-long có sợi thun thắt lại. Vừa sạch vừa gọn.
         Nghe hỏi, con Mén phân vân. Tới tuổi này, nó chưa biết đi mua một cái gì  bằng tiền thiệt hết. Huống chi nói đến chuyện bán ! Nó chỉ biết giả mua giả bán nút khoén, hộp lon, trong thế giới trẻ con nhiều  tưởng tượng của nó thôi. Tiền thiệt thì nó chỉ biết có tờ giấy năm chục đồng mà bà nội nó cho nó hồi đó. Nó đưa má nó cất rồi nó quên luôn tới giờ. Thật ra, nó chỉ biết tờ giấy đó là tiền nhưng chẳng biết giá trị là bao nhiêu và cũng không biết dùng tiền đó để làm gì. Bởi vì, trong xã hội trẻ con của nó, chỉ có dây thun là có giá !
         Thấy nó đứng ngớ ra mà miệng cười mỉm mỉm, bà bán xôi hiểu ngay, nên đề nghị : "Như vầy nghen : cháu cho bà túi dây thun, bà cho cháu cục xôi bự này nè". Nó nhìn theo tay bà chỉ : mèng ơi ! cục xôi bằng "bắp đùi" nằm trong lá chuối xanh láng mướt, ló ra hai đầu vàng hực có mấy miếng dừa lòi ra trắng hếu. Nó nuốt nước miếng, gật đầu. Vậy là lần đầu tiên con Mén biết thế nào là buôn bán trong xã hội của người lớn .
         Từ đó, nó thường đem túi ni-long dây thun ra ngõ "mua" xôi. Bà bán xôi thương nó lắm, bởi vì lần nào nó mở hàng bà cũng đều bán đắt. Nhiều hôm vắng nó bà cũng nhớ. Những hôm đó, con Mén "hết tiền". Nhưng thèm xôi, có khi nó cũng mò ra đầu ngõ, đứng xa xa nhìn thau xôi của bà lão. Thau xôi được phủ kín lá chuối, nhưng trong tưởng tượng nó cũng thấy được màu xôi vàng hực ! Thấy tội nghiệp, một hôm bà bán xôi gọi nó lại, đưa nó tờ giấy bạc : "Nè ! Lấy tiền này mua xôi mở hàng cho bà đi cháu". Nó làm theo như cái máy. Bà bán xôi cảm động, kéo nó ngồi xuống cạnh bà. Nó ăn xôi, mắt ngời lên sung sướng. Nó ốm nhom nhưng gương mặt nó thật kháu khỉnh. Mái tóc bom-bê cắt ngắn làm cho cổ nó dài ra. Bà vuốt tóc nó, nghĩ : "Con nhà ai mà dễ thương quá !". Được bàn tay khẳng khiu của bà già vuốt tóc, bỗng nhiên con Mén nghe nhơ-nhớ một cái gì. Một cái gì không rõ lắm nhưng là một cái gì thật quen thuộc. Hình như là một cảm giác êm êm, khoái khoái, một cảm giác mà từ lâu- rất lâu - nó không nghe thấy nữa. Nó mang máng nhớ một cái gì xa thật xa, một hình ảnh, một cái tên, một người… Nó ngừng nhai, miếng xôi trong miệng đội phồng một bên má. Nó nhìn lên mặt bà bán xôi : má hóp, trán nhăn, tóc lưa thưa bạc. Đúng lúc đó, từ tiềm thức của nó bật lên hình ảnh của bà nội nó. Chỉ trong có một giây mà nó nhớ lại hết : từ bàn tay vuốt tóc, từ cánh tay gối đầu, từ mùi cốt trầu hăng-hăng mà nó ghiền thở đêm đêm để ngủ. Nó nghe nghẹn ở ngực. Nó nghe như muốn khóc. Môi dưới nó trề ra. Miệng nó méo xệch. Nó buông cục xôi, đứng lên chạy ù vào ngõ. Vừa chạy, vừa kêu từng tiếng thật rã-rời : "Bà…nội…ơi… !" Tiếng "ơi " của nó kéo dài ra trong xóm, nức nở như một đường cày trên mặt ruộng…
 
 --oOo--
 
         Việt Cộng về chiếm hết mấy làng, trong đó có xóm Cầu Ngang của con Mén. Ít lâu sau, có tin bà nội nó chết. Ba má nó không dám về chịu tang, chôn cất, phần vì không có tiền, phần vì sợ Việt Cộng. Ba nó lấy một cái rương kê vào giữa vách, đặt lên đó một chén gạo và hai cây đèn cầy. Đốt đèn, đốt nhang cắm vào chén gạo, xong, ba má nó vừa lạy vừa khóc. Lần đầu tiên con Mén thấy ba nó khóc. Không biết gì, nhưng sao nó cũng muốn khóc theo. Mấy thằng anh nó ngồi xếp bằng một hàng, im thin thít. Sau đó, ba nó ôm nó vào lòng, ngồi nhìn khói nhan và hoa đèn lâu thật lâu. Nó hết nhìn cái rương lại nhìn mặt ba nó.Tự nhiên nó thấy thương ba nó vô cùng.
         Mãi sau này con Mén mới biết cái rương đó là bàn thờ  bà nội nó.
 
--oOo-- 
 
         Bây giờ, con Mén cũng được đi học. Bây giờ, ba nó cũng sắm được chiếc xe đạp để đi làm. Má nó thì vẫn đi đò ngang để qua nhà máy ve chai. Mấy anh nó, vì trường cũ hết lớp phải qua trường khác xa hơn, vẫn đi bộ.
         Má nó đã lên cấp thợ, nhờ vậy mà trong nhà thấy dễ thở hơn, sắm thêm một số đồ đạc và má nó có đeo một sợi dây chuyền… Chớ ba nó thì vẫn còn lẹt-đẹt ở cấp binh nhì, loại binh nhì dùng sai vặt trong văn phòng, đơn vị.
         Nhờ đi học, con Mén mới biết nó tên thật là Loan. Hôm đưa nó vào trường, ba nó dặn : " Khi nào cô giáo điểm danh, kêu Lê-thị-Loan thì con hô lớn lên có mặt. Nghe con ! "Nó ngạc nhiên : "Ủa ? Con tên là Mén mà !" Ba nó phải giải nghĩa rằng Loan là tên trong còn Mén là tên ngoài, ra đường mình lấy tên ngoài chớ vào trường là phải lấy tên trong vân vân… Đối với nó, ngoài trong gì lộn xộn quá. Nó chỉ biết rằng tên Loan nghe thật dễ thương nhưng lạ hoắc, còn Mén thì thật là quen tai. Tuy nhiên, có cái tên dễ thương, nó cũng nghe lòng phơi-phới.
         Nhờ đi học, con Mén hết ở trần, hết đi chân đất, nhưng tóc vẫn hớt bom-bê cao. Nó đội nón vải có bo như tai bèo, mặc áo trắng tay phùng quần dài đen, chân mang dép Nhựt. Bây giờ, thật sự nó mới có nét con gái ! Ba nó nhìn nó trìu mến : "Mẹ họ ! Con gái của ba coi cũng đặng ớn !" Rồi ba nó hôn nó đầy mặt. Nó rút cổ lại vì nhột, cười khúc-khích. Tình thương đâu đó bỗng trào dâng miên man. Giống như nước triều lên ôm xóm Bộng, âm-thầm nhưng thật là chan-chứa.
         Con Mén càng lớn, ba nó càng cưng nó nhiều. Bởi vì nó thông minh, học giỏi. Và bởi vì nó mang nhiều nét của bà nội nó. Ba nó thường nhìn nó, nói : "Thứ gì mà giống bà nội như in !" Điều mà ba nó không để ý là con Mén còn giống bà nội nó ở chỗ hay chửi đổng "Mồ tổ cha nó !" mỗi khi nó bực mình chuyện gì. Có lẽ tại vì nó chửi lầm-bầm nên ba nó không nghe.
         Mấy anh con Mén đi học buổi sáng, nó đi học buổi chiều. Thành ra lúc nào trong nhà cũng có đứa  học ê a, đứa nằm sấp xuống gạch nắn-nót làm bài. Hầu hết tụi nhỏ trong xóm đều học chung một trường, nên đi và về cùng một lúc, đứa trước đứa sau đi thành một hàng dài. Đến khi tụi nó học bài cũng nghe uềnh-oang như tiếng ễnh-ương vào mùa nước nổi.
         Trưa, con Mén cuốc bộ đi học. Chiều ba nó đi làm về, đạp xe ghé ngang trường rước nó. Những lúc đó nó thấy hãnh-diện vô-cùng. Ngồi trên bọt-ba-ga, cặp táp đeo lủng lẳng ở cổ, hai bàn tay nhỏ nắm lấy dây nịt của ba nó để giữ thăng-bằng, nó nói chuyện huyên-thuyên, hỏi ba nó đủ thứ. Ba nó lúc nào cũng có câu trả lời, cũng góp vào câu chuyện rất hào hứng chớ không phải ậm-à ậm-ừ. Cho nên, đối với nó, trên đời này chỉ có ba nó là nhứt !
         Vậy mà thời gian sau này, ba nó bị cấm-trại liên-miên. Nó đành đi học một mình và về một mình. Tối, nó ngủ một mình ên trên võng. Bây giờ nó lớn, nên không gào khóc như  thuở nó mới xa bà nội nó. Nó biết xấu hổ, nên úp mặt vào chiếc áo nhà binh của ba nó âm thầm khóc rấm-rứt. Rồi một lúc nó cũng ngủ thiếp đi, ôm chiếc áo như ôm lưng ba nó vậy.
 
--oOo--
                                                                          
         Việt Cộng tràn về chiếm hết miền Nam. Mấy ngày cuối cùng của tháng tư 75 thật là kinh hoàng. Thiên hạ rần-rần, nhốn-nha nhốn-nháo. Ba con Mén chạy bộ về đến nhà, mồ hôi mồ kê, mặt xanh như tàu lá, chỉ mặc có cái quần đùi. Ba nó hổn-hển nói với má nó : "Mẹ họ ! Trong khi lộn-xộn, thằng nào nó đớp cha nó chiếc xe đạp của anh, làm anh chạy bộ về muốn tắt thở ". Má nó lo lắng : "Còn quần áo của anh đâu ?" Ba nó nhăn nhó : "Cởi liệng cha nó rồi. Mặc để Việt Cộng nó bắn thấy tiên tổ à !". Rồi ba nó phun nước miếng cái phụt như phun một cái gì thật đắng. Má nó vội đưa cho ly nước, ba nó cầm lấy, uống ừng-ực như người bị mắc xương, mắt lồi ra căm phẫn. Không biết Việt Cộng ra sao, nhưng thấy ba nó tả-tơi như vậy con Mén cũng phát tức. Nó lầm-bầm chưởi đổng : "Mồ tổ cha nó !"
 
--oOo--
 
         Ít lâu sau, con Mén đã biết Việt Cộng là gì. Nó cũng bắt chước người lớn, gọi trổng là "họ", chớ không hiểu rằng tiếng "họ" mà người lớn dùng có ý nghĩa mỉa-mai cay đắng, bởi vì bây giờ mới thấy giữa "họ" và "mình" có quá nhiều dị-biệt.
         "Họ" bây giờ tên là "cách-mạng". Ba con Mén bây giờ bị "họ" gọi là "ngụy quân". Má con Mén bây giờ lúc nào cũng tự xưng là "vợ ngụy" mặc dù thuộc thành phần công nhân lao động.
         Xóm Bộng bây giờ cũng đổi thay bề mặt. Vựa gạo của chú Chành -người Tàu- bị tịch thu để biến thành trụ sở "Ủy ban nhân dân". Người lạ ở đâu về đó làm chủ tịch, thơ-ký. Chú Năm hớt tóc đầu ngõ bỗng thành ông "tổ trưởng", còn bác Bảy thợ hồ được thiên hạ gọi bằng "tổ phó an ninh". Chỉ có dân trong xóm vẫn còn là dân trong xóm ! Thiên hạ "nhong nhóng" đợi một thời gian coi tình hình ra sao, nhưng rồi ít lâu sau cũng chẳng thấy ai rục rịch dọn về quê về làng. Mong ước bình dị "yên rồi, về quê sanh sống" - một mong ước được chắt chiu nuôi dưỡng từ bao nhiêu năm - bây giờ giống như bọt nước bờ sông từ từ tan rã. Cái "Ngày mai trời lại sáng" bây giờ thật sự chỉ là một giấc mộng ! Thiên hạ thường chép miệng : "Ở dưới quê họ cũng tịch thâu hết rồi. Về làm cái khỉ gì ? Ở đâu cũng vậy thôi !". Dân tản cư bỗng thấy mình như bị mồ côi, vĩnh-viễn bị cắt đứt với gốc dừa cây cau chậu kiểng. Từ thân chùm gởi họ đã trở thành đám lục-bình. Xóm Bộng mặc-nhiên thành điểm tựa để đám lục bình bám vào đó làm một quê hương , đất đứng.
         Người trong xóm bây giờ thấy gần gũi nhau hơn. Làm như là không phải dân tứ xứ đến đây, mà như là tất cả đều sanh trưởng ở xóm Bộng. Bây giờ họ mới nhận thấy rằng họ giống nhau từ suy-tư đến nếp sống, từ cách ăn mặc đến lời lẽ nói năng. Họ không biết rằng biến thiên của thời cuộc đã cho họ có một đối tượng - thế giới cộng sản và con người cộng sản - để nhận-xét và so-sánh. Đối tượng đó bây giờ thật rõ nét, không còn được ngụy-trang bởi những mỹ-từ. Cho nên họ nhìn thấy không điểm nào giống họ hết, từ con người đến phong tục tập quán. Tự nhiên, họ cùng đứng về một phía và họ còn thấy cần tựa vào nhau để sinh tồn. Cũng giống như nhà của họ ở : phải xây cất bám vào nhau, kèo cột câu vào nhau, phên vách nối vào nhau để đứng vững. Xóm Bộng chưa bao giờ biết bão lụt, nhưng trong nội tâm người xóm Bộng bây giờ đang bão lụt tơi-bời…
 
--oOo--
 
         Ba con Mén đi học tập ba hôm rồi về nằm nhà gác tay lên trán. Má nó vẫn đi làm. Anh em nó vẫn đi học.
         Thời gian sau, ba nó cũng kiếm được việc làm ở bến tàu Khánh-Hội, sáng đi chiều về. Đêm đêm, ba má nó thay phiên nhau đi họp phường hoặc họp tổ. Lâu lâu, thằng anh lớn của nó đại-diện ba má ra phòng họp ngồi cho có mặt. Những lúc đó, thấy nó mang theo hoặc quyển sách hoặc cuốn tập để thừa dịp có đèn sáng mà học bài cho ngày hôm sau…
         Bỗng một đêm, công an khu-vực cầm đèn bấm đưa bộ đội đến bắt ba con Mén dẫn đi. Cả xóm nhốn-nháo trong bóng tối. Má nó chạy theo kêu khóc, trợt bờ đê té lên té xuống. Đến đầu ngõ có đèn sáng, ba nó nói với má nó : "Chắc họ bắt lầm, chớ anh không có làm gì hết. Em yên tâm."
         Ở nhà, mấy anh em nó thắp đèn rồi ngồi nhìn nhau mếu-máo. Hàng xóm thay nhau đến ngồi với tụi nó cho đến khi má nó trở về, đầu cổ bơ phờ quần áo lấm lem bùn đất. Họ an ủi má nó, xì-xầm bàn-tán cho tới khuya mới ra về.
         Đóng cửa tắt đèn từ lâu mà con Mén nằm trên võng còn nghe má nó khóc thút-thít. Nó cảm thấy thương má nó, thương ba nó. Rồi nó đâm tức giận mấy thằng công-an bộ-đội. Kềm không được, nó buột miệng chửi lớn :"Mồ tổ cha nó !". Tiếng của nó lanh-lảnh, sắc bén, rạch bóng đêm như một lưỡi dao lam. Má nó giật mình, ngừng khóc, vói tay mò-mẫm rờ đầu nó. Nó nắm lấy bàn tay áp vào một bên má như muốn chia sớt niềm đau. Má nó bỗng nghe bàn tay mình ươn-ướt.
         Mấy hôm sau, vẫn không thấy ba nó về. Trái lại, công an khu vực đến thăm má nó thường hơn. Và lần nào cũng khuyên : "Chị cứ yên tâm. Nếu nhà nước xét thấy anh ấy không có nợ máu với nhân-dân, anh ấy sẽ được thả về thôi. Ta sáng suốt chớ không ác-ôn như ngụy đâu, chị ạ !"
         Ít lâu sau, có tin ba con Mén bị đưa đi học tập cải-tạo ở đâu ngoài Trung. Má nó khóc hết nước mắt. Tên công-an khu-vực lại đến nhà khuyên : "Đi học tập chớ đi tù đâu mà chị sợ. Cứ học tập tốt là được về ngay thôi. Yên chí !" Thoáng nghe như vậy, con Mén tức cành hông. Nó nhìn tên công-an chỉ có nửa con mắt !
 
--oOo--
 
         Má con Mén bị "họ" cho nghỉ việc. Gọn như liệng một món đồ vô dụng vào sọt rát ! Tên thủ-trưởng gọi má nó vào văn phòng, nói bằng một giọng trắng nhách như vôi : "Tập thể đã nhất trí cho chị nghỉ việc ngay từ bây giờ, bởi vì chị không còn đủ điều-kiện để phục-vụ nhân-dân nữa. Chị lấy hết đồ đạc của chị rồi đi về đi."Đồ đạc là cái áo, cái khăn lông, cái nón lá và đôi dép cao su đúc. Một tên an-ninh đi theo đến cổng, dặn : "Chị đừng trở lại đây làm gì nữa. Không tốt đâu". Má nó lầm lủi đi, chẳng nói chẳng rằng. Cũng chẳng nhỏ một giọt nước mắt. Bởi vì má nó đã chuẩn bị tinh thần từ ngày biết tin ba nó đi học tập cải tạo. Dưới chế-độ cộng-sản, đã là vợ con của "ngụy " là phải biết dọn mình chịu đựng sự kỳ-thị của kẻ cầm quyền…
         Khi má con Mén về đến nhà thì tụi nhỏ đã đi hết, đứa đi học, đứa đi lao-động trong trường. Má nó bèn dọn dẹp đồ đạc rồi nấu cơm một cách thản nhiên như chẳng có gì xảy ra hết. Bình thường, má nó không về giờ này, nên hàng xóm để ý. Vài người chạy sang hỏi han như trong gia đình : "Bộ có chuyện gì sao mà má con Mén về nhà giờ này vậy ?" Hỏi, nhưng trong lòng họ đã đoán ra câu trả lời hết chín  phần mười. Má nó cũng nghe an-ủi : "Dạ thì họ đuổi chớ sao ! Ngụy mà ! Kể số gì ?" Rồi má nó cười thật mỉa mai. Một bà già phát tức, phun cốt trầu cái phẹt : "Hứ ! Cái giống gì mà thiệt vô nhân đạo. Người ta đã nghèo, một thân một mình làm nuôi bầy con mà cũng đuổi cho đành !" Một bà khác thêm vào : "Thôi đi ! Nói gì cái thứ đó !  Mồ ông mả cha của tụi nó mà tụi nó còn coi không ra gì thì nói chi tới bà con mình". Nghe mấy tiếng "bà con mình" bỗng nhiên má con Mén mủi lòng, chảy nước mắt. Từ ngày bỏ xóm Cầu Ngang tạm cư ở xóm Bộng này, mặc dù có chồng con ở một bên, má nó vẫn nghe bơ-vơ lạ-lùng. Má nó thấy thiếu con kinh đào bờ đê thẳng tấp, thiếu chiếc cầu gỗ nhón cao chân dài, thiếu màu vàng ruộng lúa, thiếu mùi thơm bông cau, thiếu họ-hàng ruột thịt… Những thứ mà má nó đã thở từ những hơi thở đầu đời. Những thứ mà má nó đã nhìn từ khi nụ nhìn biết phân biệt. Tất cả, tất cả đã trở thành nhịp sống của chính bản thân của má con Mén. Mất đi những thứ đó, má nó cảm thấy như bị tách biệt ra khỏi cuộc đời này… Xóm Bộng tuy hiền, nhưng trước đây người cùng xóm đối xử với nhau còn nhiều dè-dặt, ít qua lại với nhau, gặp nhau chào hỏi xã-giao lấy lệ. Do đó, mặc dù sống trong xóm nhỏ đông người, má con Mén vẫn thấy như mình sống lẻ loi giữa đồng giữa ruộng. Niềm đau đó má nó dìm sâu trong nội tâm từ bao lâu nay, bây giờ mấy tiếng "bà con mình" thật chất-phác nhưng thật gần gũi, thật đậm đà tình lân lý, đã mở ngỏ khơi nguồn. Má nó khóc mà nghe lòng thật ấm-cúng và cũng thật là thênh thang trải rộng. Giống như ruộng lúa xóm Cầu Ngang được ươm vàng dưới nắng, cuối mùa mưa…
 
--oOo--
 
         Biết thân phận mình không làm sao tìm được việc làm ổn định, dù làm phu quét đường đổ phẩn, má con Mén cầm thế  một mớ nữ trang quần áo rồi đi buôn đầu chợ bán cuối chợ. Tưởng giống như ngày xưa ở dưới quê, té ra thật là chật vật. Ở đây và bây giờ, có một trăm người bán nhưng không có một vạn người mua. Quá nhiều người bán bởi vì những người này một số không chịu đi làm cho chế độ, một số bị chế độ sa thải đành buôn bán lắt nhắt để kiếm sống. Quá ít người mua bởi vì thiên hạ không còn tiền…
         Anh em con Mén cũng đã nghỉ học, ở nhà giúp má tụi nó bằng cách đi bươi đống rác lượm ve chai, giấy vụn, bao ni lông… Má con Mén cắt bao bố tời may lại thành túi nhỏ cỡ bằng ba giỏ đi chợ, có hai quai để tụi nó mang vào vai vào cổ. Mấy đứa lớn mang ba túi mỗi đứa, mấy đứa nhỏ tùy bữa mà đeo khi một khi hai. Đứa nào cũng cầm một que sắt đầu uốn cong như cái móc. Thằng lớn hay đùa : "Tụi mình bây giờ thành Cái Bang hết. Tao là trưởng lão ba túi, còn tụi bây là đệ tử. Mỗi ngày tủa ra đi hành hiệp trên mấy đống rác thành phố Hồ Chí Minh quang vinh !" Rồi tụi nó cười vui như chẳng biết phiền lụy là gì.
         Má con Mén thì khác. Ưu tư nằm ngay trong ánh mắt nụ cười. Những đêm trằn trọc đã đào sâu đôi má. Càng ngày, con người càng héo hon. Tuy nhiên, chẳng bao giờ nghe má nó mở miệng than một lời. Thấy tội nghiệp, hàng xóm thừơng qua thăm mẹ con con Mén để phụ tụi nhỏ lựa ra và xếp riêng thành đống miểng chai theo miểng chai, ni long theo ni long, giấy theo giấy v.v… Lâu lâu họ cũng mang cho vài khúc mía, trái dừa hoặc mấy nhúm tôm khô. Có gì cho nấy, không còn nề hà dở ngon hay nhiều ít. Má con Mén đều nhận hết, không bao giờ từ chối đẩy đưa. Bây giờ, làm như là người ta sống thật tình với nhau hơn hồi trước. Làm như là thiên hạ cần có nhau như hơi thở cần cho cuộc đời. Có lẽ bởi vì họ đã mất tất cả những gì họ đã có, bây giờ họ chỉ còn lại có nhau thôi…
         Lần hồi rồi má con Mén cũng phải bán đi chút đỉnh đồ đạc trong nhà để đủ có miếng ăn cho lũ nhỏ. Lúc này tụi nó lớn thấy rõ, mặc dù ăn uống kham khổ. Mấy bà hàng xóm thường nói : "Trời sanh, trời nuôi". Mà thật, tới con Mén cũng cao lên, tuy vẫn còn gầy. Tay chân hơi ghẻ lở nhưng gương mặt vẫn kháu khỉnh nhờ mái tóc vẫn hớt bom-bê cao. Nó không chịu để tóc dài. Mỗi lần má nó đề nghị "Để tóc dài đi con cho nó thành con gái" nó lắc đầu nguầy nguậy, tóc bom-bê xòe ra như rẻ quạt : "Nực thấy mồ…" Mấy hôm đầu đi bươi rác, nó còn mang dép Nhựt. Sau đó, nó lượm một mớ giày Bata rách mũi, chọn được hai chiếc vừa chân thì một xanh một vàng. Nó mang vào, hí hửng : "Kệ nó ! Khác màu như vậy khỏi sợ chúng nó ăn cắp". Rồi nó đem đôi dép Nhựt rửa sạch, cất kỹ. Không ai hỏi, nhưng nó vẫn giải thích : "Để giành mai mốt có  đi học lại, có mà mang" Nghe nó nói, thằng anh hai nó nhìn nó rất lâu, bồi hồi xúc động. Anh nó nhận thấy con Mén không còn là con nít nữa.
 
--oOo--
 
         Má con Mén có một người chị ruột tên Ánh -Nguyễn Thị Ánh- hồi đó nấu bếp cho vợ chồng một ông Tây. Khi gia đình ông này dọn về xứ, chị Ánh cũng đi theo họ rồi ở luôn bên đó. Ít lâu sau, có tin chỉ lấy chồng người Pháp rồi hai vợ chồng đưa nhau qua làm ăn ở Phi-Châu. Chỉ cũng đã vào quốc tịch Pháp và đổi tên là Anne – bà Anne Brioude.
         Khi má con Mén bắt đầu cạy gạch bông nền nhà lên bán để độ nhựt – thằng  anh con Mén nói "hết ăn tủ tới ăn rương, bây giờ tụi mình ăn tới gạch !" thì chị Ánh ở bên tây về kiếm thăm. Ông chồng khuyên không nên về sợ gặp khó khăn, nhưng chỉ vẩn quyết định : "Tôi phải về kiếm tụi nó coi ra sao. Nghe nói bây giờ bên Việt Nam dân chúng đói khổ lắm". Rồi chị mua thật nhiều hàng vải quà cáp làm như gia đình chị bên nhà còn rất đông. Thật ra, chị Ánh chỉ còn có má con Mén là ruột thịt, nhưng mười mấy năm xa cách đã làm cho tình thương trong lòng chị thật mênh-mông, không bờ không bến, đến độ chị không đo lường được nữa không phân biệt được nữa đâu là tình thương em đâu là tình thương quê hương…
         Về Sàigòn – chị Ánh vẫn gọi là Sàigòn vì thói quen – chị ở khách sạn Hữu-Nghị. Ngày ngày chị đi dò hỏi tin tức má con Mén, từ những người quen xa xa chỉ qua những người cùng gốc ở Cầu Ngang nhưng đã lên làm ăn ở thành thị từ trước… Cứ phăn lần phăn lần rồi chị Ánh cũng tìm ra xóm Bộng. Đến đây, chị gặp một trở ngại lớn : người trong xóm không biết ai tên là Nguyễn thị Hoa hết. Chị giải thích dài dài : "Nó nhỏ nhỏ con, người tròn trịa trắng trẻo, năm nay chừng băm mấy chớ chưa già lắm" Chị tả hình dáng của người em gái cách đây đã mười mấy năm, cái thời mà hai chị em còn ở dưới quê, trưa trưa hay ra ngồi trên cây dừa bắt ngang đường nước, thọc chân trong nước mát, đong đưa kể chuyện tâm tình… Hình ảnh đó, chị đã mang đi và giữ vẹn cho đến bây giờ, quên mất là thời gian đã đi qua và nét đời đã bị bôi đi vẽ lại ! Không ngã lòng, chị tìm cách nói với mấy bà già trong xóm : "Cháu tên là Nguyễn thị Ánh, con em cháu tên Nguyễn thị Hoa. Tụi cháu dân ở Cầu Ngang, miệt dưới…" Địa danh Cầu Ngang đã giúp mấy bà nghĩ ra má con Mén. Một bà hỏi : "Có phải cô đó có bốn đứa con không ?" Chị Ánh mừng rỡ : "Đúng rồi ! Người ta nói nó có bốn đứa con, ba trai một gái !" Bà già gật đầu : "Vậy là má con Mén rồi !" Trước khi chỉ đường, bà trách nhẹ : "Kiếm má con Mén thì nói kiếm má con Mén ! Cô cứ nói Nguyễn thị Hoa hoài, ai mà biết ai !"
         Vậy là hai chị em gặp nhau. Gặp nhau thật là ngỡ-ngàng. Quá nhiều thay đổi để nhìn ra nhau ngay và xa cách đã quá lâu nên tình cảm bị chìm sâu trong tìm thức. Phải một vài giây im lặng để tìm lại những nét cũ trên gương mặt bây giờ và để những tình cảm bị bỏ quên từ ngày xưa được trả về với hiện tại. Sau phút ngỡ ngàng hai chị em ôm chầm lấy nhau, khóc nức-nở.
 
--oOo--
 
         Chị Ánh đã quyết định : gia đình con Mén phải qua Phi Châu ở với chỉ. Nhìn tay chân ghẻ lở của bầy cháu, nhìn gương mặt già trước tuổi của đứa em, chị nghe bất nhẫn vô cùng. Chị nói : "Không được ! Ở lại đây tụi bây cùi luôn, ngu luôn. Qua bển tao lo cho hết. Còn ba tụi bây, từ từ rồi tính sau“ Rồi chị sắp đặt : ”Chị để lại một mớ tiền, em lo liệu cho mấy đứa nhỏ và đi thăm nuôi chồng em. Chừng chị về bên đó, chị sẽ gởi tiếp thêm để em chạy lo giấy tờ. Tốn bao nhiêu thì tốn, nhưng phải đi khỏi xứ này gấp”. Má con Mén như người không biết lội vừa chìm xuống nước ngoi lên ôm được cái phao, nhìn trời cao lồng lộng bên trên mà cảm nhận cuộc sống này vẫn còn có lối thoát.
         Chị Ánh trở về Pháp. Tụi nhỏ vẫn tiếp tục bươi đống rác ngày ngày để đừng ai để ý. Má con Mén chạy chọt dò dẫm rồi cũng tìm ra trại học tập của chồng.
         Lần đi thăm nuôi đầu tiên, con Mén có đi theo. Thấy ba nó gầy nhom, nó rớt nước mắt. Má nó kể chuyện dì Ánh cho ba nó nghe, ba nó vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Nhưng khi nghe hỏi ý kiến về vụ cho mấy đứa nhỏ sang Phi Châu, ba nó bỗng im lặng nhìn ra bìa rừng làm như câu trả lời nằm ở đâu ngoài đó. Một lúc sau, ba nó nói, thật trầm tĩnh : ”Ờ… tính như vậy cũng được. Cho mấy đứa nhỏ nó có tương lai…” Rồi ba nó cầm lấy hai bàn tay nhỏ của nó, vừa bóp nhẹ vừa nhìn nó thật lâu. Nó cũng nhìn ba nó : chưa đầy một năm mà ba nó già đi nhiều, mắt sâu xuống, gò má nhô lên, râu tóc rối bời… Ba nó đã làm tội tình gì mà “tụi nó”đày đọa ba nó ra như vậy ? Rồi nó nhìn ra mấy thằng bộ đội đứng lớ-ngớ ngoài kia, môi nó mím lại,mắt nó lồi ra : nó muốn lấy que sắt cào bươi  "tụi nó” tả tơi như nó nó đã cào bươi mấy đống rác ! Từ đó, con Mén biết thế nào là hận thù…
 
--oOo--
 
         Dì Ánh đã gởi về đầy đủ giấy tờ, má con Mén cũng đã nạp hồ sơ xin xuất cảnh qua Côte d’Ivoire (Phi Châu). Nhờ có tiền gởi về, má nó chạy chọt đút lót nên cũng không gặp nhiều khó khăn. Cho đến ba con Mén bây giờ cũng được các cán bộ dành nhiều dễ-dãi.
         Thời gian qua mau, mới đó mà đã hai năm mấy. Khi ba con Mén được thả về thì mẹ con tụi nó chỉ còn chờ ngày lên máy bay. Ba nó về mà có cảm tưởng như được đặc-cách cho về để đưa vợ con đi vậy. Bởi vì, sau đó, ba nó vẫn sẽ phải sống chật-vật một mình trong một vùng kinh-tế mới nào đó, và tuy không còn ở trong trại nhưng vẫn ở lại trong xứ thì cũng giống như bị giam trong một trại tập trung khổng-lồ.
         Ngày ba nó trở về, căn nhà nhỏ bỗng trở nên quá nhỏ để tiếp những người hàng xóm. Ai cũng mừng cho gia đình con Mén, mừng thật sự, bởi vì đối với họ, ba con Mén là người của đại gia đình xóm Bộng. Vậy mà cái đại gia đình đó vẫn chưa ai hay rằng tụi con Mén sẽ bay đi tìm sống tự do ở một chân trời khác. Bởi vì má con nó luôn luôn giữ kín chuyện này, cũng như mọi người đang lo xuất cảnh hay toan tính vượt biên, chẳng một ai dám hé răng.
         Bây giờ con Mén lớn rồi, nên nó để cái võng cho ba nó nằm. Nó săn sóc ba nó từng chút : lấy khăn lông nhúng nước cho ba nó lau mặt, nấu trà cho ba nó uống, bới cơm cho ba nó ăn. Mẹ con nó ngồi dưới đất vây quanh võng để nghe ba nó kể chuyện cải tạo đầy khổ nhục. Ba nó bây giờ hút thuốc rê như ống khói. Ba nó thấy bầy nhỏ nhìn mình châm-chú, nên mỉm cười phân trần như tự bào chữa : “Hồi đó ba đâu biết hút thuốc. Rồi trong trại, phần vì lạnh, phần vì buồn, bạn tù chia nhau điếu thuốc rê. Riết rồi ghiền luôn, bỏ không được”. Con Mén nghe thương ba nó vô cùng. Nó muốn nhào lại ôm ba nó để chia sớt ngần đó tháng năm chồng chất bằng đói lạnh buồn đau. Nó muốn nhào lại cầm tay ba nó đặt lên một bên má của nó, rồi an ủi ba nó bằng những lời lẽ thật là dịu thật là ngọt. Nó muốn… nó muốn… Nhưng, không hiểu sao nó vẫn ngồi yên nhìn ba nó mà nghẹn-ngào chảy nước mắt. Có lẽ nó tự nhận thấy bây giờ nó không còn là con nít nữa.
 
--oOo--
 
         Bữa đi phi-trường thật là tội nghiệp. Cả nhà len-lén đi, không dám chào ai hết. Gọi là đi chánh-thức nhưng giống như là đi trốn, đi chui. Má con Mén dặn dò mấy đứa nhỏ thật kỹ lưỡng, rồi kết luận : “Sợ bà con biết rồi ba con buồn, hiểu chưa ?”
        Nếu bà con biết thì có lẽ bà con sẽ buồn thật. Không phải chỉ buồn vì xa tụi con Mén, mà còn buồn vì số phận hẩm hiu của mình, bởi vì không phải ai cũng được may mắn như gia đình con Mén. Điều mà má nó không nói ra là trong thâm tâm má nó rất ái nái khi phải bỏ xóm Bộng ra đi. Má nó thấy mình giống như lính đào ngủ trong khi bạn đồng đội đang gan lỳ chịu đựng. Ngồi trên xe đi phi trường mà má con Mén cứ lâu lâu lại thở dài…
         Phi-trường đông thật đông, Người đi không có bao nhiêu mà người tiễn đưa thì thật là nhiều. Kẻ đi người tiễn nào mắt cũng mọng đỏ. Họ đã khóc đâu từ hồi còn ở nhà hay từ hồi còn trên xe, đến đây còn thấy có người khóc tiếp. Dĩ nhiên buổi tiễn đưa nào cũng buồn, nhưng tiễn đưa mà biết rằng vĩnh viễn không gặp lại nhau nữa thì buổi tiễn đưa đó mới thật là đau đớn. Nó cũng giống như đi chôn người thân, cho nên có nhiều người ôm nhau khóc thật thảm thiết. Người đi cũng như kẻ ở đều chết điếng trong lòng. Lời nói chỉ còn là nước mắt.
         Mấy anh em con Mén lần lượt ôm ba tụi nó, khóc như mưa bấc. Con Mén được ba nó ôm sau cùng, ôm thật lâu… Ba nó siết chặt nó vào lòng mà nghe như có cái gì trạo trực từ lồng ngực đưa lên cổ. Ba nó nhắm nghiền mắt lại, nuốt xuống  như nuốt liều thuốc đắng.
         Đến khi ba nó hôn nó lần cuối thì nước mắt ở đâu bỗng trào ra như suối. Trong một khoảnh khắc, người đàn ông quê mùa cục mịch đó bỗng nghe thân xác của mình tan ra thành nước, bỗng thấy tất cả đều nhòe nhoẹt tối đen mà mình thì đã chết đi, chết hẳn. Thời gian như ngừng lại rất lâu…
         Rồi cũng phải buông rời nhau ra để thực sự nhìn nhau lần cuối. Những người tiễn đứng thành hàng dài, còn rán chồm qua hàng rào ngăn cách để núm níu người đi. Chỉ trong vài giây ngắn ngủi đó, tất cả đau thương cô đọng lại thành tiếng nấc, rồi người ta khóc to lên không còn cần giữ ý tứ gì nữa. Giống như lúc liệng nắm đất lên mặt quan tài nằm sâu dưới huyệt. Ở đây, đúng là “người đi” đi vào một thế giới khác.
         Ba con Mén nhìn theo vợ con bước vào bên trong, khoảng cách không có bao nhiêu nhưng sao thấy xa mút như đầu con kinh đào ở xóm Cầu Ngang. Con kinh đào mà thuở ấu thơ ba nó đã từng nô đùa tắm mát bây giờ cũng xa lắm nhưng còn có ngày ba nó nhìn thấy lại, chớ vợ con thì… Ba nó ngừng suy tư ở đó để vẫy tay lần cuối trước khi vợ con bước qua khuôn cửa kiếng. Cánh cửa đóng lại khô khan như gương mặt mấy thằng công an đứng gần quanh đó, dửng dưng như chẳng có chuyện gì xảy ra ! Trong phòng đợi, con Mén lẩm nhẩm đánh vần khẫu hiệu được vẽ to trên tường bằng sơn đỏ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
 
--oOo--
 
         Tôi quen con Mén ở Abidjan, thủ đô xứ Côte d’Ivoire. Má nó đưa anh em nó lại để học Pháp văn với tôi, cùng với những đứa con của mấy gia đình tỵ nạn khác.
         Con Mén bây giờ không còn “mén” nữa. Nó tròn-trịa ra, đôi má phinh-phính hồng. Tóc bây giờ đã để dài chấm vai, đuôi tóc quớt quớt.
         Khi đã quen thân, con Mén tỉ-tê kể cho tôi nghe từng mẫu chuyện nhỏ trong cuộc đời của nó, nhớ đâu kể đó, không thứ tự lớp lang. Nhưng phần lớn, chính má nó kể lại, tỉ mỉ hơn, nhứt là đoạn nó còn nhỏ.
         Những lúc con Mén kể chuyện, mặt nó tươi ra, rạng rỡ, mắt nó ngời lên tinh-anh. Và khi nó nói về ba nó, nó không thiếu một chi tiết. Lâu lâu nó ngừng lại để chêm vào : “Cũng tại tụi Việt Cộng hết !” Đến những đoạn bi-thảm của ba nó, có khi nó ngừng kể, mắt nó đầy căm thù, tiếng nó bị nghiến lại trong răng. Tôi đoán nó đang chửi thầm : “Mồ tổ cha nó !”
         Một hôm, nó nói với tôi :
         - Bác Hai nè ! Bác đừng nói với ai hết nghen. Con muốn nhờ bác dạy con chữ quốc-ngữ nữa. Hồi đó con mới học hết lớp một rồi nghỉ học luôn tới giờ nên con còn dốt lắm !
         Rồi nó chớp chớp mắt, giọng nói bỗng trở nên trìu mến :
         - Con muốn học quốc ngữ để con viết thơ cho ba con…
         Câu nói đó đã làm tôi xúc động đến ứa nước mắt !
         Từ bao lâu nay, người tỵ nạn chỉ nhờ tôi dạy Anh văn hay Pháp văn. Đây là lần đầu tiên trong đời lưu vong, tôi được người nhờ dạy quốc-ngữ. Lại là một cô gái nhỏ. Và cô học chỉ để viết thơ về cho cha cô ở Việt Nam ! Giản dị như vậy. Vậy mà sao tôi có cảm tưởng như tôi vừa được nhắc đến quê hương, nhắc bằng chữ i, chữ tờ… Và được thấy lại một nét quê hương qua hình ảnh người con muốn viết thơ về cho cha vì vẫn không muốn cắt lìa cuống rún !
         Tôi nhìn con Mén mà thấy thương thấy quí nó vô cùng. Nó không hiểu cái nhìn của tôi nên gật gật đầu, lập lại :
         - Con muốn viết thơ cho ba con.
         Tôi cầm hai bàn tay nó bóp nhẹ :
         - Ờ… Bác sẽ dạy con… Bác sẽ dạy con…
         Trên gương mặt phinh phính của con Mén, nở ra một nụ cười rạng rỡ. Chắc nó đang nghĩ đến ba nó, đến cái ngày mà nó có đủ chữ đủ câu để nắn nót viết cho ba nó những bức thơ dài…
         Ở Abidjan không có sách giáo khoa Việt Nam. Tôi phải nhờ một người bạn ở Paris mua gởi sang. Từ đó, ngày ngày tôi dạy riêng con Mén mà có cảm tưởng như chính tôi đang đi học lại.
         Bây giờ, tôi thấy quí vô cùng những chữ la-tinh mang móc câu, để trở thành chữ ư chữ ơ, đội nón úp nón ngửa để trở thành chữ â chữ ă, kéo theo mấy dấu lăn quăn nằm dưới nằm trên… Bởi vì nhờ có chúng nó mà cha con con Mén vẫn thấy được gần nhau mặc dầu ở xa nhau cách nửa địa cầu. Bởi vì nhờ có chúng nó mà tôi đã khám phá ra con Mén : một đứa gái nhỏ tuy tỵ nạn bao năm ở xứ người mà trong lòng vẫn còn giữ nguyên hình ảnh của xóm Bộng, của Sàigòn, của Việt Nam…